Một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, công dân trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Ngày đăng: 23/01/2018
Cùng với việc ghi nhận quyền con người (trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo), quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại.Tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định của các bản Hiến pháp trước đây về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới quan trọng đặc biệt liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Để cụ thể hóa các quy định về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Hiến pháp đó là được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14 Hiến pháp) hay “mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (Điều 24 Hiến pháp), ngày 18/11/2016, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội biểu quyết thông qua. Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

Luật tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo từ trước đến nay. Luật có nhiều điểm mới, tiến bộ thể hiện rõ nét và đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo;… phù hợp với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay cũng như nâng cao hiệu lực,hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Một trong những nội dung mới, mang tính căn bản trong Luật là quy định về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo.

1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân

Việc quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo một mặt nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tăng cường tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo.

Trên cơ sở kế thừa một số quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bên cạnh các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở nhiều điều, khoản, Luật còn dành một chương quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhiều chủ thể, cụ thể:

- Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người:

Tại Điều 6 của Luật đã quy định nhiều chủ thể được thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đó là mọi người, mỗi người, người chưa thành niên, chức sắc, chức việc, nhà tu hành; người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.

Đối với mỗi người, Luật quy định có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn  giáo; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo.

Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

Đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác. Bên cạnh đó, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ và các tổ chức, cá nhân khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính, khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật có liên quan; cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền tự thân, không do một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào ban tặng; là quyền của tất cả mọi người và quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi. Đây cũng là quy định tương đồng với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

- Quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc:

Luật quy định mang tính nguyên tắc về các quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Các quyền này bao gồm hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và văn bản có nội dung tương tự của tổ chức tôn giáo, cụ thể các quyền này trong Luật bao gồm:

+ Thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo;

+ Thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành;

+ Cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc;

+ Tổ chức hội nghị thường niên, hội nghị liên tôn, hội nghị có yếu tố nước ngoài;

+ Tổ chức đại hội;

+ Tổ chức cuộc lễ;

+ Phong phẩm hoặc suy cử cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam;

+ Thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế;

+ Gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài;

+ Thực hiện các hoạt động xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của pháp luật;

+ Tham gia các hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan;

+ Tổ chức sinh hoạt tôn giáo;

+ Xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tôn giáo;

+ Sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo;

+ Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo;

+ Nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho;

+ Các quyền khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam:

Luật đã dành một điều tại Chương 2 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Các quyền này bao gồm được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Đối với chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam ngoài các quyền trên còn có quyền được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.

2. Nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo

Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định rất nhiều quyền cơ bản cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Bên cạnh đó, Luật cũng xác định cụ thể nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện các hoạt động liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, cụ thể:

Điều 9 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đó là tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định khác của pháp luật có liên quan; chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ, người tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, liên quan đến tổ chức hoạt động tín ngưỡng, Luật quy định trách nhiệm, nghĩa vụ có liên quan như Điều 10 của Luật quy định hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường; cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng (Điều 11); trách nhiệm của cơ sở tín ngưỡng phải đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm(Điều 12); thông báo việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ (Điều 13); đăng ký đối với lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi (Điều 14); trách nhiệm quản lý và sử dụng đúng mục đích, công khai, minh bạch khoản thu từ việc tổ chức lễ hội (Điều 15);…

Đối với tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; tổ chức tôn giáo trực thuộc khi thực hiện các hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo (thông báo hoạt động của cơ sở đào tạo; thông báo người được phong phẩm hoặc suy cử; thông báo người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; thông báo thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành; thông báo cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc; thông báo hội nghị thường niên; thông báo danh mục hoạt động tôn giáo;…); gửi hồ sơ đăng ký hoặc đề nghị; gửi văn bản đăng ký hoặc đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền tùy theo các trường hợp đã được Luật định.

Luật cũng xác định trách nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo của Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước. Nhiệm vụ của thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện bao gồm:Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban nhân dân các cấp; thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Đặc biệt, khi tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo khi thi hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm như lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quy định về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo.

Như vậy, có thể nói hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo có đối tượng và phạm vi rộng, bao gồm mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Do vậy, sự phối hợp, thực hiện có trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương và các cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; chức sắc, chức việc, nhà tu hành khi thực hiện các hoạt động liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo giữ vai trò quan trọng. Việc phối hợp nhịp nhàng, có trách nhiệm như nêu trên một mặt sẽ giúp cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện thuận lợi; đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người, cho các tổ chức, cá nhân có liên quan đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này./.

Bùi Kim Ngân