Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta hiện nay
Ngày đăng: 31/01/2024
Đại biểu các tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng tham dự chương trình phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức tại thành phố Hải Phòng
Ngày nay, bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới để ổn định và phát triển xã hội đều cần tích hợp đa dạng các phương thức quản trị xã hội hiện đại, trong đó không thể thiếu vai trò, sự quản lý bằng pháp luật. Theo đó, tùy thuộc vào điều kiện, kinh tế, chính trị, xã hội mà hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia có những tương đồng và khác biệt trên thực tế. Ở Việt Nam, hơn ba mươi năm thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội; đời sống của Nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Nhiều chính sách, pháp luật ở các lĩnh vực đã được xây dựng, ban hành đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước đổi mới, hội nhập và phát triển, trong đó đáng ghi nhận là lĩnh vực pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức cũng như sự phù hợp với thực tiễn. Khung pháp lý ở lĩnh vực này đã có nhiều quy định cụ thể, cởi mở, thông thoáng cho cả hai phía - quản lý nhà nước và các chủ thể thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Theo đó, hiệu quả pháp luật quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cũng như vai trò, sự đóng góp của các tổ chức tôn giáo trong xây dựng đời sống ở các vùng miền trong cả nước mang tính hài hòa, tích cực, đạt được nhiều kết quả hơn. Bên cạnh đó, có thể từ nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trên phạm vi cả nước vẫn còn những tồn tại, khó khăn, kết quả chưa đạt được như kỳ vọng của các các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như từ các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Để pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng thực hiện có hiệu quả cần phải có những giải pháp cụ thể. Bài viết này xin được bàn về một số giải pháp giải quyết cho nội dung nêu trên.

1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn giáo

Thời điểm từ năm 2004 (khi Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực) đến trước ngày 01/01/2018 (khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực) các vấn đề liên quan đến tổ chức tôn giáo, hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo tập trung, tài sản của tổ chức tôn giáo và các vấn đề liên quan khác của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đều thực hiện theo các quy định của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và các nghị định quy định, hướng dẫn chi tiết một số điều cho Pháp lệnh. Để có căn cứ, cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tham mưu cho Quốc hội xây dựng, thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Bộ Nội vụ đã có báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Theo báo cáo, quá trình thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản có liên quan đã đem lại nhiều kết quả đáng ghi nhận, bên cạnh đó các văn bản còn tồn tại một số bất cập như một số quy định chưa được đưa vào Pháp lệnh; một số nội dung quy định thiếu cụ thể, không phù hợp với thực tiễn. Điều đó đã gây ra sự lúng túng, khó khăn cho cả hai phía cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Những tồn tại, bất cập này khi xây dựng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã được tiếp thu, khắc phục. Nhiều quy định mới được bổ sung trong Luật đã đem lại sự đổi mới thực sự trong chính sách, pháp luật của nhà nước đối với đời sống tôn giáo.

Một trong những bổ sung cơ bản đó có thể nêu ra đó là việc đưa vào giải thích một số cụm từ như: tín ngưỡng, tôn giáo, địa điểm hợp pháp, người đại diện, sinh hoạt tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc hay việc tách bạch cách hiểu chức sắc và chức việc. Bên cạnh đó, còn nhiều nội dung được đánh giá là những điểm mới cơ bản, đem lại sự thay đổi mang tính chất quyết định của nhiều quy định như: rút ngắn thời gian để công nhận một tổ chức là tổ chức tôn giáo từ 23 năm xuống còn 05 năm; thừa nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân phi thương mại; mở rộng chủ thể được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung; quy định điều kiện để tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo; cho phép các tổ chức tôn giáo ra nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài; cho phép người nước ngoài thuê, mượn địa điểm để sinh hoạt tôn giáo tập trung; phong phẩm hoặc suy cử cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; cho phép tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được tiếp nhận tài trợ từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài; nhiều quy định đã thay đổi theo hướng tích cực, có lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo như thay vì phải xin phép hoặc đăng ký như quy định của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo thì nay chỉ phải thông báo; đặc biệt, một số quy định đã thay đổi cơ quan có thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện từ Thủ tướng Chính phủ hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh sang cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo (Bộ Nội vụ) hoặc ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các nội dung đó như công nhận tổ chức tôn giáo; chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập tổ chức tôn giáo trực thuộc; thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo; các vấn đề về giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo;… Những điểm mới cơ bản này đã được các tổ chức, cá nhân tôn giáo đón nhận và tích cực thực hiện, đem lại những kết quả đáng ghi nhận cũng như làm cho việc thực hiện pháp luật về tôn giáo thời gian qua thật sự sôi động.

Mặc dù, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành năm 2016, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 với nhiều điểm mới đáng ghi nhận như nêu trên, nhưng đời sống tôn giáo của các tổ chức, tín đồ tôn giáo luôn có sự thay đổi, đặc biệt với xu thế mở cửa và hội nhập hiện nay, sự giao lưu quốc tế ngày càng thuận tiện thì việc tồn tại, lạc hậu của các quy định pháp luật là không thể tránh khỏi. Việc tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là việc làm cần thiết và cũng là giải pháp đầu tiên giúp cho việc thực hiện pháp luật về tôn giáo đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Bước đầu rà soát cho thấy hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đang có một số vấn đề khó khăn, bất cập trong thực hiện, cần sửa đổi theo hướng sau đây:

Thứ nhất, sửa đổi quy định tại Điều 34 của Luật về đăng ký chức việc theo hướng cho các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đăng ký nhân sự sau khi có kết quả bổ nhiệm, bầu cử, suy cử. Quy định này sẽ phù hợp với tất cả các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là khâu hoàn thiện hồ sơ (trong đó có phiếu lý lịch tư pháp) sau khi họ đã có kết quả bổ nhiệm, bầu cử, suy cử sẽ tránh lãng phí về công sức, tiền của của các nhân sự dự kiến bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc.

Thứ hai, cần sửa đổi quy định của Luật tại Điều 16 về đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung theo hướng cho tổ chức tôn giáo trực thuộc (theo Luật hiện nay chỉ cho tổ chức tôn giáo được thực hiện quyền này) là chủ thể đứng ra đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ của tổ chức tại những nơi chưa có cơ sở tôn giáo (thay vì tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc) sẽ hợp lý hơn.

Thứ ba, cần sửa đổi Luật để cho phép người Việt Nam đang làm chức sắc ở nước ngoài được về Việt Nam giảng đạo cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.

Thứ tư, Chính phủ sớm ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP đã quy định các quyền, nghĩa vụ cụ thể, từ các quy định này cần cân nhắc nên đưa các hành vi được quy định tại Điều 5 của Luật (các hành vi bị nghiêm cấm); các hành vi mà các tổ chức, cá nhân tôn giáo và các tổ chức, cá nhân có liên quan thường xuyên vi phạm;... vào nghị định. Các hành vi này khi được quy định phải mang tính răn đe là chính, mặt khác, có tính khả thi, đảm bảo nếu các tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm có thể xử phạt được. Tránh tình trạng Nghị định quy định nhưng trên thực tế lại không xử phạt được dẫn đến tổ chức, cá nhân vi phạm “nhờn” pháp luật.

2. Kiện toàn tổ chức bộ máy tham mưu quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực đội ngũ công chức thực hiện pháp luật về tôn giáo

Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo, tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo không chỉ là một nội dung của thực hiện pháp luật về tôn giáo mà còn là hoạt động nhằm bảo đảm pháp luật về tôn giáo được tổ chức và nghiêm túc thực hiện. Hay nói cách khác toàn bộ các quy định của pháp luật về tôn giáo có thực hiện được hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý nhà nước về tôn giáo; vào yếu tố tổ chức bộ máy, vào con người trong các tổ chức đó. Như vậy, hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo, tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo là hoạt động bắt buộc của thực hiện pháp luật về tôn giáo. Việc khai thác được những tiềm năng, sáng tạo của các nhà quản lý, cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo trong thực hiện pháp luật về tôn giáo chính là những yếu tố tích cực, thúc đẩy nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; phẩm chất đạo đức; sự nhiệt tình và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả thực hiện pháp luật về tôn giáo. Vì vậy, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên, tận tụy trong công tác là một trong những yếu tố quan trọng của thực hiện pháp luật về tôn giáo. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo cũng cần quan tâm đẩy mạnh các nội dung sau đây:

Một là, về tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo, cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo thời gian qua, đặc biệt là việc sáp nhập cơ học ngành tôn giáo vào ngành nội vụ. Trên cơ sở đó để có một mô hình tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo phù hợp như gom tất cả các cơ quan, đơn vị làm công tác tham mưu, quản lý về tín ngưỡng, tôn giáo; các cơ quan, đơn vị nghiên cứu về vấn đề này để thành lập một cơ quan độc lập tương đương bộ.

Hai là, về đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo, Nhà nước cần có phân khoa đào tạo chuyên ngành về công tác tôn giáo (hiện nay, một số học viện và trường đại học mới chủ yếu đào tạo chuyên ngành về nghiên cứu tôn giáo). Các cơ quan trong hệ thống chính trị cần tăng cường hơn nữa việc cử công chức thuộc cơ quan mình tham gia khóa đào tạo, đào tạo lại tại các cơ sở đào tạo hoặc tham gia các lớp bồi dưỡng, cập nhật thông tin, tình hình tín ngưỡng, tôn giáo do các cơ quan có liên quan tổ chức (Ban Tôn giáo Chính phủ, Học viện Hành chính Quốc gia). Nội dung nghiên cứu, học tập tại các khóa đào tạo, các lớp bồi dưỡng cần đổi mới, cập nhật thường xuyên từ nội dung, hình thức, cách thức, thời lượng để người tham gia nắm bắt kịp thời.

Bên cạnh đó, một trong những giải pháp hiệu quả của công tác này đó là cần quan tâm đến việc sử dụng, bố trí, bổ nhiệm, điều động cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo phù hợp; quan tâm, ưu tiên đối với những người có năng lực, trình độ, kinh nghiệm và nhiệt huyết với phương châm vì việc mà bố trí con người, tránh tình trạng sử dụng không đúng người, đúng việc vừa không mang lại hiệu quả công việc, vừa ảnh hưởng đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, công chức.

3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tôn giáo

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý; có ảnh hưởng vô cùng lớn đến hành vi pháp lý và lối sống làm việc theo pháp luật trong xã hội. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật tốt sẽ làm cho cán bộ, công chức, người dân có kiến thức pháp luật, sự hiểu biết pháp lý để, một mặt, họ tự điều chỉnh hành vi của mình, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, mặt khác, biết sử dụng công cụ pháp luật để tự bảo vệ trong những trường hợp cần thiết; đối với cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật sẽ hướng dẫn, giúp cho người dân thực hiện các quy định hiệu quả hơn, hiểu biết pháp luật sẽ biết được vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo các quyền cho người dân. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật tốt cũng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa pháp luật vào cuộc sống từ đó phát hiện ra những tồn tại, bất cập để xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật kịp thời. Vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả các văn bản pháp luật, các quy định của Nhà nước được truyền tải đầy đủ, chính xác, kịp thời đến những người thực hiện, áp dụng pháp luật.

https://ddk.1cdn.vn/2023/10/31/image.daidoanket.vn-images-upload-tientt-10312023-_z4834175831755_0f721125c226e7909589d9f413b9bf08-2.jpg

Hội nghị đối thoại với Phật giáo tỉnh An Giang về việc thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 162/2017/NĐ-CP

Từ kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo những năm qua, cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến các vi phạm pháp luật là do sự thiếu hiểu biết pháp luật. Thực trạng này không chỉ có trong đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, mà còn phổ biến trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo. Từ sự không hiểu biết, không nắm chắc các quy định của pháp luật trong đó có pháp luật về tôn giáo dẫn đến các sai phạm trong quản lý, cũng như trong thực hiện các hoạt động tôn giáo. Để phần nào giải quyết thực trạng trên, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm nhiều hơn đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức, Nhân dân nói chung và tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo nói riêng. Từ năm 2003 đến nay, đã có nhiều đề án liên quan đến công tác tuyên truyền, phổ biến dành cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành; công chức làm công tác tôn giáo được phê duyệt để thực hiện nhằm nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Cho đến nay, hằng năm, Nhà nước vẫn tiếp tục đầu tư một khoản kinh phí cho công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo cho đội ngũ công chức làm công tác tôn giáo; chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo. Hiệu quả của công tác này, thời gian qua, đã được cải thiện, tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập, cụ thể:

Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục mà chỉ tập trung triển khai khi có văn bản pháp luật của Nhà nước được ban hành.

Hai là, việc tuyên truyền mới chú trọng tại một số vùng, miền đậm đặc tín đồ các tổ chức tôn giáo; còn nhiều vùng, miền khác chưa được quan tâm thực hiện.

Ba là, hình thức tuyên truyền mới chỉ tập trung vào việc tổ chức hội nghị trực tiếp; nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến khác cũng đã được thực hiện như trên tạp chí, trên các trang mạng, tuyên truyền qua các cuộc tiếp xúc, trao đổi, thanh tra, kiểm tra, các cuộc thi tìm hiểu chính sách, pháp luật về tôn giáo nhưng chưa thường xuyên.

Bốn là, nội dung, chất lượng các buổi tuyên truyền cần phải tiếp tục cải thiện từ cả hai phía, báo cáo viên và người tham dự các hội nghị.

Để khắc phục tình trạng này, các tỉnh, thành phố cần tiếp tục đầu tư kinh phí thường xuyên cho công tác tuyên truyền, phổ biến; có thể mời các báo cáo viên cấp Trung ương về thực hiện hoặc bổ sung thêm các hình thức tuyên truyền khác như thông qua sách báo pháp luật, thông qua giáo dục, phim ảnh có nội dung pháp luật, qua các hội nghị tuyên truyền phổ biến, các ấn phẩm về pháp luật, các cuộc tiếp xúc, làm việc, các cuộc thi... cũng sẽ giúp cho đối tượng thụ hưởng nắm bắt nhanh và thực hiện hiệu quả hơn pháp luật về tôn giáo.

4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện pháp luật về tôn giáo

Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc nhà tu hành và Nhân dân các tỉnh, thành phố có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng. Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân nêu trên trong hệ thống chính trị và trách nhiệm đối với việc triển khai, thực hiện pháp luật về tôn giáo sẽ quyết định hiệu quả của công tác này. Đây là nội dung quan trọng, vì nếu không nhận thức đúng, đầy đủ quan điểm của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, vai trò của thực hiện pháp luật về tôn giáo sẽ không có được sự quan tâm, đầu tư, củng cố, kiện toàn tổ chức thực hiện công việc này một cách thỏa đáng.

Thường xuyên xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo có năng lực, phẩm chất chính trị, tâm huyết với nghề, vừa hồng vừa chuyên là trách nhiệm của các cấp, các ngành. Coi trọng việc phát triển đảng viên trong đồng bào tôn giáo là một chủ trương lớn của Đảng. Công tác này nếu được chú trọng sẽ dẫn đến số lượng đảng viên, chi bộ tại các tỉnh, thành phố nơi có sự hiện diện đậm đặc của chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo ngày được tăng cường về số lượng cũng như chất lượng. Từ đó, nâng cao sức mạnh, xây dựng các cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh để trở thành hạt nhân chính trị toàn diện ở các khu vực này. Trên cơ sở tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, các đảng bộ sẽ vận dụng ban hành các nghị quyết, chỉ thị về tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo phù hợp với đặc thù của khu vực. Các văn bản này sẽ là bước tiếp nối quan trọng, hiệu quả để đưa pháp luật về tôn giáo đến với người dân, nâng cao hiệu quả của công tác này.

Bên cạnh các giải pháp nêu trên, tùy thuộc vào các vùng miền khác nhau để có các giải pháp phù hợp như đối với các tỉnh khu vực Tây Nguyên hay miền núi phía Bắc thì cần có các giải pháp như nâng cao nhận thức, đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo; vận dụng luật tục của các dân tộc; hiến chương, điều lệ, giáo lý, giáo luật của các tổ chức tôn giáo vào việc thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh này; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn các tỉnh.

TS. Nguyễn Thị Định