Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo - Kim chỉ nam trong công tác tôn giáo hiện nay
Ngày đăng: 09/09/2022Đoàn kết tôn giáo là một trong những nội dung đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. Luận giải vấn đề này có ý nghĩa sâu sắc trong quán triệt và thực hiện có hiệu quả của quan điểm, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo. Trong phạm vi bài viết, tác giả khai thác các khía cạnh gắn với thực hiện công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay, đó là đoàn kết với ai, nội dung gì và kiên quyết vạch trần, đấu tranh với lực lượng chống phá nào liên quan đến tôn giáo.
Một là, đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết lương giáo và những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết dân tộc là quan điểm chủ đạo, bao trùm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tối cao đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Người đã chỉ ra cơ sở vững chắc của khối đoàn kết dân tộc là lợi ích chung, mẫu số chung, điểm đại đồng để đoàn kết mọi người Việt Nam, giáo cũng như lương, đó là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1. Từ đó, Người tin tưởng, tôn trọng đồng bào các tôn giáo, hướng họ vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Do am hiểu sâu sắc bản chất niềm tin tôn giáo của tín đồ; biết kết hợp khéo léo niềm tin tôn giáo với niềm tin vào cách mạng, vào tương lai của dân tộc, Hồ Chí Minh đã tập hợp, hướng đồng bào các tôn giáo vào thực hiện nhiệm vụ chung giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới “tốt đời, đẹp đạo”. Người hướng niềm tin tôn giáo vào niềm tin cách mạng, tập hợp, đoàn kết quần chúng trong khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện ước nguyện chung của mọi người Việt Nam là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Tín đồ tin vào cuộc sống tốt đẹp ở thiên đường, thế giới bên kia sau khi chết. Người cách mạng tôn trọng niềm tin đó của tín đồ. Nhưng “có thực mới vực được đạo”, con người trước hết phải có ăn, có mặc, có đời sống vật chất, tinh thần đã rồi mới có thể tham gia sinh hoạt tôn giáo. Cho nên, chỉ có cách mạng - đem lại cơm no áo ấm cho đồng bào mới là thực sự đảm bảo cho đồng bào tự do tín ngưỡng. Như vậy, chủ nghĩa xã hội không những không mâu thuẫn với lý tưởng của tôn giáo, mà còn hiện thực hoá lý tưởng đó. Đây là cơ sở khách quan khích lệ giáo dân theo Đảng, theo cách mạng để thực hiện “tốt đời, đẹp đạo” như khát vọng thiêng liêng của đồng bào các tôn giáo. Người yêu cầu tín đồ “Kính Chúa và yêu nước” phải kết hợp với nhau; “tốt đời, đẹp đạo” phải đi liền với nhau, không thể phân chia. Tốt đời tạo cơ sở vật chất, xã hội để đẹp đạo. Muốn đẹp đạo cần phải đi theo cách mạng xây dựng cuộc sống mới. Vì thế, không lý do gì đồng bào các tôn giáo không đoàn kết cùng toàn thể dân tộc kháng chiến, kiến quốc. Ai không thực hiện điều đó không phải là người Việt Nam yêu nước chân chính và cũng không phải tín đồ chân chính. Đây là yêu cầu cần phải có đối với mọi tín đồ Việt Nam chân chính, yêu nước. Từ đó, Người kêu gọi phải đoàn kết, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, già, trẻ, gái, trai…. “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn là đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị... Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”2. Và Người đã tổng kết thành chân lý: Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết. Thành công, Thành công, Đại thành công.
Hai là, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục
Mê tín dị đoan là vấn đề phức tạp, nên khắc phục nó không hề đơn giản, đòi hỏi kiên trì trong thời gian dài. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ một mặt phải tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, mặt khác phải kiên trì giáo dục quần chúng xoá bỏ “mê tín nhảm” và các hủ tục. Người nhắc nhở cán bộ không thành kiến, hẹp hòi, không xúc phạm tín ngưỡng, không mắc bệnh dùng lý luận không đúng lúc, hay đao to búa lớn “nào khách quan, chủ quan”, “nào tích cực, tiêu cực”, “nào khoa học hoá”, “gì gì hoá” mà “tốt nhất là miệng nói, tay làm làm gương cho người khác bắt chước”. Cán bộ phải: “Dạy cho đồng bào: 1. Thường thức vệ sinh để cho dân bớt đau ốm. 2. Thường thức khoa học để bớt mê tín nhảm.”3.
Người đã soạn ra 12 điều răn, với lối viết súc tích dễ nhớ, trong đó có 6 điều không nên và 6 điều nên làm. Điều không nên thứ 5 là: "không nên xúc phạm tín ngưỡng, phong tục của dân như nằm trước bàn thờ, giơ chân lên bếp, đánh đàn trong nhà". Điều nên thứ 5 là: Nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi, trước là gây cảm tình, và sau là để dần dần giải thích cho dân bớt mê tín. Cùng với 12 điều răn là 8 điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn ra, trong đó điều thứ 4 là: “Bảo vệ đền chùa nhà thờ, trường học, nhà thương và các cơ quan văn hóa xã hội khác…. Chính quyền, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tín ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng bào”4. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, phương pháp giáo dục khắc phục mê tín hủ tục phải thận trọng, kiên trì, gần gũi với đồng bào; với phương châm lấy cái tốt mà bỏ dần cái xấu, “dần dần nói cho người ta hiểu, để người ta vui lòng làm, chứ không có quyền ép người ta”5, không thể nóng vội xoá bỏ hết mọi sự mê tín một cách cực đoan.
Ba là, kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, lợi dụng tôn giáo chống lại cách mạng là bản chất của các thế lực thù địch với nhiều thủ đoạn thâm độc kích động mâu thuẫn lương, giáo, chia rẽ đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc. Trước những âm mưu xuyên tạc thâm độc đó, Người đã chỉ rõ để chức sắc, tín đồ các tôn giáo khỏi ngộ nhận. Ngay từ những năm 1924 (trong phần Giáo hội - Đông Dương), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án mạnh mẽ thực dân Pháp cấu kết với các giáo sỹ, chức sắc Công giáo để xâm lược Việt Nam. Người tố cáo giáo sỹ Pháp làm gián điệp, trực tiếp bắn giết đồng bào ta cả giáo và lương. “Chính những tên giáo sĩ đã vẽ bản đồ An Nam cho quân xâm lược. Chính bọn họ đã đưa tin cho gián điệp dẫn đường cho đội viễn chinh và tố giác những người yêu nước”6. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Thực dân Pháp là bọn đốt nhà thờ, hiếp bà phước, giết tín đồ chức sắc, giết dân ngoại đạo.... Chúng là bọn ác ma, bọn phản Chúa, giết Chúa. Người kết luận: “Thực dân là lũ Sa tăng. Phản Chúa, phá đạo là thằng thực dân”7.
Ở đây, Người phân biệt rạch ròi tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng. Bọn đội lốt tôn giáo để chống phá cách mạng là bọn “Việt gian đồng thời cũng là giáo gian”, chúng là bọn bất chính, giả danh tín đồ để làm điều xấu độc mà thôi. Người không bao giờ phê phán giáo dân và Ki tô giáo nói chung. Từ đó, Người kêu gọi: “đồng bào cảnh giác và chớ mắc mưu những kẻ tuyên truyền lừa bịp”, “Bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng cương quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản Chúa, phản nước”8. Người chứng minh rằng “nước độc lập, dân mới tự do tín ngưỡng” để đồng bào hiểu và thực hiện đúng chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Đây là luận điểm có giá trị lớn, giải toả băn khoăn, mặc cảm của tín đồ, chức sắc tôn giáo trước các luận điệu xuyên tạc thâm độc của kẻ thù.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo chỉ ra hai góc độ. Một là, đoàn kết lâu dài và rộng rãi giữa người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau trên cơ sở cùng mục tiêu chung vì nền độc lập, phát triển của Tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào, vì những giá trị tiến bộ, nhân văn của nhân loại. Hai là, khắc phục những tác động tiêu cực, không phù hợp của tôn giáo, kiên quyết đấu tranh với các thế lực lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện có hiệu quả công tác tôn giáo là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy những tác động tích cực, phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh, xử lý những tác động tiêu cực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc9. Quan điểm trên thể hiện đầy đủ, sâu sắc sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, chỉ rõ đối tượng nào cần đoàn kết, bảo đảm cả về mặt pháp lý lẫn thực tiễn và đối tượng nào phải phòng ngừa, đấu tranh, xử lý trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ nhất, đoàn kết với những người theo tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, dân tộc
Đó là những tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của công dân, truyền thống tốt đẹp của con người, văn hóa, dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Phát huy vai trò, tác động tích cực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là yếu tố văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”10.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước ta đã công nhận 41 tổ chức, cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 2 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với khoảng 26.5 triệu tín đồ, chiếm hơn 1/4 dân số cả nước, gần 56.000 chức sắc, 146.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự11. 16 tôn giáo gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc Phục lâm, Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc môn, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ Hương12. Quan điểm của Đảng về “các nguồn lực của các tôn giáo” xác định là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận nêu trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có tôn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát triển đất nước. Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Chúng ta cần phát huy những “nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng”, “giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo” vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
Thứ hai, nhận diện và đấu tranh với những đối tượng lợi dụng tôn giáo để trục lợi, vi phạm pháp luật, cản trở, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đó là những kẻ lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan, trục lợi, gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, chia rẽ mối đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại cuộc sống bình yên, hạnh phúc, hao tốn của cải, sức khỏe của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chúng ta cần nhận diện và đấu tranh, xử lý nghiêm minh mọi hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, phản động. Những kẻ lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam gồm thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài và thế lực thù địch, phản động ở trong nước.
Ở nước ngoài: Một là, số đối tượng có tư tưởng chống phá Việt Nam trong các tổ chức nhân quyền, tôn giáo thế giới chủ yếu ở Mỹ và Châu Âu. Hai là, một số nghị sĩ, chính khách chống chủ nghĩa xã hội cực đoan ở các nước tư bản chủ nghĩa. Ba là, các báo, đài phản động chống Việt Nam. Bốn là, các tổ chức phản động, lưu vong người Việt ở nước ngoài. Năm là, các tổ chức chống đối trong các tôn giáo ở hải ngoại. Các đối tượng này thường giữ vai trò chủ mưu, chỉ đạo, tài trợ và hậu thuẫn cho đối tượng ở trong nước. Ngoài ra, với lợi thế của mình chúng còn trực tiếp tiến hành một số hoạt động mà các phần tử chống đối ở trong nước không thể thực hiện được.
Ở trong nước: Thứ nhất, số đối tượng chống đối trong các tôn giáo (không thừa nhận các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận). Thứ hai, các tổ chức tôn giáo trong các tôn giáo chưa, không được Nhà nước công nhận (cả trong 16 tôn giáo và các “hiện tượng tôn giáo mới”, đạo lạ, tà đạo). Ba là, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật. Loại đối tượng này thường là người trực tiếp triển khai, thực hiện âm mưu, ý đồ lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch ở nước ngoài.
Tuy âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam có khác nhau những chúng luôn câu kết, móc nối chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích chống chủ nghĩa cộng sản, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong chiến lược “diễn biến hoà bình”. Để đạt được mục đích trên, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam xác định mục tiêu cơ bản, xuyên suốt là chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích động đồng bào các tôn giáo chống lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây mất ổn định chính trị xã hội, tạo cớ can thiệp hoặc khi thời cơ đến kích động bạo loạn lật đổ, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hoá xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, các thế lực thù địch (cả ở trong nước và ở nước ngoài) lợi dụng tôn giáo không phải vì lợi ích của các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ, cũng chẳng phải vì “tự do tôn giáo” như chúng thường cổ súy mà là nhằm thực hiện mưu đồ chính trị phản động, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, lái cách mạng nước ta theo quỹ đạo của chúng. Chúng không hề bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo như chúng vẫn thường rêu rao và một số người ngộ nhận mà càng làm tổn hại đến đời sống tinh thần tín ngưỡng của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân, làm hoen ố thanh danh của chính các tôn giáo, nhằm lôi kéo đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng. Chúng chính là những “Việt gian”, bọn “phản Chúa, phá Đạo”, lũ “Sa tăng” … như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Đây cũng chính là điều đi ngược lại lợi ích chân chính của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo, của các chức sắc, tín đồ tôn giáo mong muốn có cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”, “đồng hành cùng dân tộc”, thực sự hạnh phúc trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả tiến hành công tác tôn giáo hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong tiến hành công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay cần quán triệt và thực hiện có hiệu quả một số nội dung sau:
Thực hiện đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là mục tiêu trong thực hiện công tác tôn giáo. Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, chính tinh thần đoàn kết để dựng nước và giữ nước, người có đạo khác nhau, giữa người có đạo và không có đạo ở Việt Nam luôn có sự tôn trọng, chung sống hòa hợp. Thế nên, Đảng ta đặt mục tiêu của công tác tôn giáo là đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại đoàn kết toàn dân tộc là phù hợp, kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phản ánh đúng ý chí, khát vọng của người Việt Nam hiện nay, trong đó có đồng bào có đạo.
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người. Đây là sự khái quát đầy đủ chủ trương nhất quán của Đảng ta đối với vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm ở đây bao hàm cả sự tôn trọng, quan tâm, tạo điều kiện về mặt pháp lý lẫn thực tế đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Đối tượng bảo đảm ở đây được mở rộng là “con người”, không những là tổ chức, “nhân dân”, “công dân” ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo khi họ sinh sống, học tập, làm việc ở Việt Nam cũng như người Việt ở nước ngoài khi về quê hương.
Chủ động trong tiến hành công tác tôn giáo. Chủ động lắng nghe, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân là thực tiễn sinh động khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo đất nước không thể thay thế được của Đảng ta. Công tác tôn giáo cũng vậy, cần có sự chủ động để kịp thời phát huy những tác động tích cực, hạn chế, phê phán, đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu cực liên quan đến tôn giáo. Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định sự chủ động nhằm giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: 1) Giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng. 2) Phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai nhiệm vụ này cần được tiến hành song song, đề cao tính chủ động của hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chức năng là hết sức cần thiết.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo. Đảng ta đánh giá tầm quan trọng, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo: “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. Quan điểm trên nhấn mạnh đến yếu tố quản lý nhà nước đối với các hoạt động liên quan đến tôn giáo, trong đó quản lý nhà nước về công tác tôn giáo phải là trung tâm, các cơ quan chức năng phải có đủ năng lực, hệ thống luật pháp, cơ chế bảo đảm phù hợp và đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả tiến hành công tác tôn giáo./.
Thượng tá, ThS Nguyễn Ngọc Hương
Chú thích
(1) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 65.
(2) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 244.
(3, 5) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 604, 127.
(4) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 488.
(6) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 442.
(7) - Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1998), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 255.
(8) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 313.
(9, 10) - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 171.
(11) Ban Tôn giáo Chính phủ: Công tác tôn giáo 2022, Nxb. Tôn giáo, H, 2021, tr.43-66.
(12) Bộ Nội vụ: Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tính đến tháng 12/2020 (Kèm theo Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28/12/2020 của Bộ Nội vụ).