Giá trị và những tương đồng giữa Giáo luật về hôn nhân với Luật Hôn nhân và gia đình của Công giáo Việt Nam
Ngày đăng: 25/02/20251. Giá trị cơ bản của hôn nhân, gia đình Công giáo
Hôn nhân chung thủy. Đây là một trong những giá trị nổi bật của hôn nhân Công giáo Việt Nam, là nền móng để xây dựng gia đình hạnh phúc. Nghiên cứu giá trị của hôn nhân Công giáo Việt Nam thực chất là làm rõ cơ sở hình thành và bản chất của các giá trị đó. Tính chung thủ của hôn nhân Công giáo Việt Nam không tự nhiên có được, sự hình thành và tồn tại của nó bị quy định bởi các triết lý sống của người Công giáo Việt Nam.
Người Công giáo rất nghiêm túc trong hôn nhân. Theo họ, hôn nhân là một việc trọng đại vì thế nhất thiết phải có sự chuẩn bị về mọi mặt. Sự tìm hiểu về hôn nhân của người Công giáo được bắt đầu từ rất sớm, với 3 giai đoạn: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị liền trước bí tích. Ngay từ khi còn nhỏ, thông qua các buổi học giáo lý các bạn trẻ Công giáo Việt Nam được trang bị kiến thức về giới tính, về nhiệm vụ vợ chồng, cha mẹ và những ứng xử thường gặp trong hôn nhân. Điều này giúp họ có kiến thức và phương pháp trong việc xây dựng và giữ gìn các giá trị của hạnh phúc gia đình. Giáo hội quan niệm, giáo dục là một quá trình, hôn nhân, tình dục và quan hệ nam nữ là những vấn đề tất yếu của con người nên Giáo hội không có ý định né tránh mà cần phải giáo dục một cách bài bản và nghiêm túc. Đây là quan niệm rất tiến bộ của Giáo hội, giúp người Công giáo tránh được những rủi ro trong hôn nhân.
Ngay từ đầu người Công giáo Việt Nam đã xác định rõ mục đích của hôn nhân là vợ chồng trọn đời chung thủy với nhau. Điều này có sở thần học: là do kính yêu Thiên Chúa, do lo sợ bị Thiên Chúa trừng phạt nếu làm trái ý ngài, bởi vì “sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly”.
Với ý thức đó, người Công giáo Việt Nam đã duy trì sự gắn bó vợ chồng và coi đó như mọi ân sủng được Thiên Chúa ban tặng. Ngoài việc nghĩ tới cảm nhận bản thân, vợ và chồng còn phải biết nghĩ đến những người thân trong gia đình, từ đó cân nhắc trong lời lẽ, trong cư xử và lối sống, làm tấm gương và bài học cho con cháu noi theo. Khi vợ chồng có mâu thuẫn thì họ chủ động hòa giải, tránh tạo xung đột căng thẳng.
Gia đình bền vững. Hôn nhân chung thủy chính là nền tảng để gia đình bền vững. Giá trị bền vững của gia đình là một trong những đặc trưng căn bản của Công giáo Việt Nam. Giá trị này được biểu hiện ở rất nhiều nội dung khác nhau như vợ chồng chung thủy, ít ly dị, biết hòa giải, biết kìm chế, thông cảm và chia sẻ lẫn nhau,...
Gia đình được xây dựng trên cơ sở tình yêu chung thủy. Sự hình thành giá trị này một mặt bắt nguồn từ sự trung tín giữa Chúa Giê-su và Hội Thánh, mặt khác, nó bắt nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc của người Việt Nam. Là một dân tộc phương Đông, người Việt nói chung và người Công giáo Việt Nam nói riêng thường có tâm lý ưa sự ổn định, ít thay đổi, điều này thể hiện rõ nhất trong đời sống hôn nhân, khiến cho tính trọn đời chung thủy của hôn nhân Công giáo càng có điều kiện bám rễ sâu ở Việt Nam so với các dân tộc khác.
Quan hệ vợ chồng đơn nhất và bất khả phân ly. Đây là đặc tính của hôn nhân Công giáo giúp người Ki-tô hữu chống lại nạn ngoại tình, chế độ đa thê và nạn ly dị. Đây cũng chính là cơ sở khiến cho gia đình Công giáo ở Việt Nam trở nên bền vững. Vì không có cơ hội tái hôn một khi đã thành sự nên hôn nhân của người Công giáo Việt Nam thường được xây dựng trên nền tảng của tình yêu chân chính, điều này khác với kiểu tình yêu sét đánh, tình yêu thực dụng của một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện nay. Giáo hội cho rằng, “Hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly là hình thức đúng đắn duy nhất của gia đình”. Hôn nhân là một khế ước trao hoán. Khi bước vào đời sống hôn nhân, thân xác người chồng là của người vợ, cũng như thân xác người vợ là của người chồng, do đó, việc chiếm hữu thân xác chỉ dành cho vợ chồng. Và như vậy, ngoại tình không được chấp nhận trong hôn nhân, vì nó không những lỗi đức trong sạch mà còn lỗi đức công bằng.
Lễ cưới tại nhà thờ
Hôn nhân mang tính thánh thiêng. Thánh thiêng là một trong những giá trị mang tính tín ngưỡng văn hóa của người Công giáo Việt Nam, được biểu hiện rõ nhất trong đời sống hôn nhân, gia đình. Thánh thiêng cũng là đặc trưng nổi bật của hôn nhân Công giáo, dùng để phân biệt người Công giáo và người ngoài Công giáo. Khác với các giá trị vật chất, không thể cắt nghĩa giá trị thiêng liêng bằng thực chứng, duy vật hay thực nghiệm, mà thước đo ở đây là sự đồng cảm của các tín đồ trên cơ sở đức tin và nghi lễ. Cơ sở hình thành nên tính thánh thiêng của hôn nhân Công giáo Việt Nam là những quan niệm và đức tin của họ, cụ thể:
Người Công giáo cho rằng, Thiên Chúa là gốc của hôn nhân, là đấng tác tạo hôn nhân nên ngày luôn ở cùng với họ, theo sát và che chở cho họ trong cuộc sống vợ chồng. Nếu trái ý ngài con người sẽ bị đày xuống hỏa ngục. Vì thế họ luôn hướng đến cuộc sống tích cực và duy trì hạnh phúc vợ chồng vì kính yêu Thiên Chúa và lo sợ bị Thiên Chúa trừng phạt. Theo họ, chính cạm bẫy và những tệ nạn xã hội là những tội lỗi xô đẩy con người rơi xuống vực sâu và trở thành kẻ phản bội Thiên Chúa.
Khi hai vợ chồng có bất trắc họ sẽ cùng tìm ra giải pháp để duy trì cuộc hôn nhân do chính họ lựa chọn và được Thiên Chúa chúc phúc, chứ không phải là sự chạy trốn hay tìm cách kết thúc. Điều này hoàn toàn khác với những hiện tượng cực đoan trong xã hội hiện đại như ly thân, ly hôn, chán đời, sống tiêu cực, không mục đích, thâm chí tìm cách tự tử khi tuyệt vọng.
Hôn nhân là một bí tích. Việc kết hôn không phải là một hành vi trần thế thuần túy mà là một giao ước thánh, Thiên Chúa đã dùng quyền năng liên kết vợ chồng và nâng lên hàng bí tích cao cả. Qua bí tích hôn nhân, họ nhận được ân sủng đặc biệt từ Thiên Chúa, được Thánh hóa và được nâng đỡ. Điều này khác với quan niệm của một số bạn trẻ hiện nay, khi coi hôn nhân như một bản hợp đồng hợp pháp được kí kết giữa hai người khác giới để sống có trách nhiệm với nhau về tài sản và con cái. Khi tình yêu và trách nhiệm không còn thì hợp đồng bị hủy.
Người Công giáo Việt Nam đặc biệt con trọng lễ nghi hôn phối. Đối với họ hôn nhân là một giao ước Thánh, một bí tích Thánh thiêng nhưng có tính trần tục. Vì thế hôn nhân Công giáo gồm có cả phần đạo và phần đời, trong đó phần đạo là quan trọng và có ý nghĩa quyết định.
Gia đình là Hội thánh tại gia. Điều này hoàn toàn khác với quan niệm coi gia đình là nơi ở, là quán trọ tá túc. Người Công giáo Việt Nam cho rằng, chính bí tích hôn phối đã giúp họ xây dựng gia đình mình thành một mái ấm hạnh phúc, nơi Thiên Chúa và tình yêu ngự trị. Và để xây dựng Hội Thánh thu nhỏ này các gia đình Công giáo Việt Nam được mời gọi sống nếp sống của Hội Thánh, tức nếp sống đạo.
Người Công giáo Việt Nam luôn coi trọng việc làm gương của cha mẹ đối với con cái trong giáo dục gia đình. Vì vậy, họ nuôi dạy con cái theo tinh thần Phúc âm và điều răn của Chúa. Mẫu người lý tưởng mà giáo dục Ki-tô hướng đến là Chúa Giê-su. Để có thể hướng con cái theo mẫu hình lý tưởng đó thì bản thân các bậc làm cha làm mẹ phải chuẩn mực, phải sống và dạy dỗ con cái theo tinh thần Phúc âm và điều răn của Chúa. Nội dung kính Chúa, yêu người, sống thiện và thảo kính với cha mẹ,...luôn là chủ đề cốt yếu trong giáo dục gia đình. Chính vì có một nền tảng giáo dục gia đình vững chắc nên lối sống của người Công giáo Việt Nam thường giàu tính nhân văn.
Như vậy, chỉ có thể hiểu và sống hôn nhân như bí tích, gia đình như Hội Thánh trong bối cảnh màu nhiệm của Chúa Ki-tô thì mới có thể thấy hết sự kiện toàn trong đời sống hôn nhân, gia đình của người Công giáo Việt Nam. Nếu hôn nhân, gia đình bị thế tục hóa hay chỉ được nhìn nhận như một thực tại tự nhiên thì tính Thánh thiêng sẽ bị lu mờ. Hôn nhân bí tích, gia đình Hội thánh thuộc về bình diện của ân sủng và đức tín, vì thế với người Công giáo Việt Nam, cuộc hôn nhân đó rất thiêng liêng, cao cả vì đã được Thiên Chúa chúc phúc, Thánh hóa và dõi theo, vì vậy họ không được tùy tiện bỏ nhau vì những lý do của thế giới trần tục.
Tôn trọng sự sống và yêu thương con người. Đây là một trong những nguyên tắc và đặc trưng căn bản của Công giáo Việt Nam và cũng là mục tiêu cao nhất của văn minh nhân loại. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng nhất để hình thành lối sống giàu tính nhân văn của người Công giáo Việt Nam. Giá trị tôn trọng sự sống và yêu thương con người của Công giáo được biểu hiện như: Vợ chồng người Công giáo Việt Nam có quan niệm nghiêm túc về vấn đề tạo sinh, về sinh con có trách nhiệm, không nạo, hút, phá thai; Bố mẹ giáo dục con cái yêu thương con người và sống có tình có nghĩa; không giết người và không xâm phạm thân thể người khác; bố mẹ giáo dục con cái có lối sống tích cực, không bi quan chán nản, biết trân trọng bản thân và trân trọng người khác... Giá trị này có cơ sở từ Kinh Thánh, giáo lý, giáo luật,...
Tuy không phải là một học thuyết về đạo đức nhưng triết lý của Kinh Thánh luôn răn dạy con người phải sống thiện. Trong Kinh Thánh, giá trị nhân bản của Côn giáo được tập trung rõ nhất ở Mười điều răn của Thiên Chúa, tựu lại với hai nội dung chính là kính Chúa và yêu người. Từ hai nội dung gốc rễ này mà các giá trị đạo đức giàu tính nhân văn của Công giáo được hình thành, và vì lẽ đó mà Công giáo được coi là tôn giáo của tình yêu, Thiên Chúa là tình yêu.
2. Những tương đồng giữa Giáo luật và Luật Hôn nhân và gia đình
Sự tương đồng trước tiên giữa giáo luật Công giáo và Luật Hôn nhân và gia đình là cả hai luật đều xuất phát từ mục đích của hôn nhân, đó là lợi ích của đôi vợ chồng trong việc chính thức hóa tình yêu của họ trên cơ sở tự nguyện kết hôn để thực thi các nghĩa vụ của gia đình là sinh sản và giáo dục con cái. (Giáo luật, Điều 1057; Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 9).
Sự tương đồng thứ hai là về đối tượng được phép kết hôn của cả hai luật: “mọi đối tượng không bị luật cấm”. Cả hai luật đều đưa ra những quy định cụ thể để ngăn cấm hoặc vô hiệu hóa việc kết hôn như “Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi; cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
Thứ ba, cả hai luật đều đưa ra những quy định cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích của hôn nhân. Việc hôn nhân được quy định trong Giáo luật 1983 hay Luật Hôn nhân gia đình đều phải thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật, dựa theo phong tục và Luật Dân sự.
Thứ tư, cả hai luật đều đưa ra những trách nhiệm buộc có đối với các thành viên trong gia đình: trách nhiệm của cha mẹ với con; ông bà với cháu; con với cha mẹ; cháu với ông bà; và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Trong nội dung của cả hai luật đều nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử phi đạo đức đối với các thành viên trong gia đình.
Thứ năm, cả Giáo luật và Luật Hôn nhân gia đình đều đưa ra các điều kiện về tuổi kết hôn và những quy định khác để ngăn cấm kết hôn trái với phong tục hay luật pháp của Nhà nước. Giáo luật 1983 hay Luật Hôn nhân gia đình đều có những điểm chung quy định về tuổi kết hôn, quy định về kết hôn thân tộc, hoặc đa hôn,…
Thứ sáu, cả hai luật đều đề cao sự tự do kết hôn với sự đồng thuận của các hai người.
Thứ bảy, việc kết hôn của người nam và người nữ bắt buộc phải được luật hóa, tức là phải được Giáo luật và luật pháp ghi nhận. Với người Công giáo - đồng thời là người công dân, khi kết hôn họ không những buộc phải đăng ký và ghi vào sổ đăng ký kết hôn để có nghĩa vụ, đồng thời được pháp luật bảo vệ, mà họ còn phải ghi vào sổ hôn phối của nhà thờ, cũng để họ có nghĩa vụ với nhau và được Giáo hội chứng thực.
Thứ tám, cả hai luật đều đề cao và quy định buộc có đối với nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. Luật Giáo hội hay Luật Hôn nhân và gia đình đều đề cao sự chung thủy của vợ chồng, đề cao hôn nhân 1 vợ 1 chồng, không khuyến khích ly thân, ly hôn để tránh những ảnh hưởng xấu tới gia đình, con cái và xã hội.
Thứ chín, cả Luật Giáo hội và Luật Hôn nhân và gia đình đều khuyến khích việc hòa giải để hàn gắn, giữ gìn hạnh phúc gia đình (Giáo luật, Điều 1152; Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 86).
Thứ mười, một đặc điểm chung nữa giữa hai luật là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo đảm dù đó là hôn nhân của người Công giáo hay hôn nhân của người không Công giáo, hay hôn nhân hỗn hợp giữa người Công giáo và người ngoài Công giáo. Giáo luật 1983 đề ra những quy định của pháp luật và phong tục nơi người tín đồ đăng ký kết hôn, ví dụ như quy định về tuổi, quy định về giấy đăng ký kết hôn.
Những nội dung tên là đặc trưng của hôn nhân, gia đình Công giáo Việt Nam và cũng là giá trị trường tồn trong đời sống xã hội của con người, đặc biệt với xã hội phương Đông, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, những giá trị đó cần phải được gìn giữ, khai thác và phát huy trước hết là trong cộng đồng giáo dân, rộng hơn là xã hội Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay khi chúng ta đang chủ động xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nguyễn Lê
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Hồng Dương (2012), Công giáo Việt Nam tri thức cơ bản, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
2. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam năm 2016.
3. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2013), “Hiệp Thông”, Bản tin Chuyên đề Đức tin Ki-tô giáo và vấn đề giới tính.
4. Lê Đức Hạnh (2012), Hôn nhân và nếp sống đạo trong gia đình người Việt Công giáo, Nxb. Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
5. Lê Đức Hạnh (2021), Sống đạo Công giáo và ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân.