Những đóng góp của Ni trưởng Huỳnh Liên đối với dân tộc và đạo pháp
Ngày đăng: 15/01/2025Lịch sử ghi nhận, cuộc đời và sự nghiệp của Ni trưởng Huỳnh Liên đã để lại cho các thế hệ kế thừa về tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm của người con Phật đối với đạo pháp và dân tộc, phẩm chất giới hạnh của người xuất gia. Theo lịch sử của hệ phái Khất sĩ, vào năm 1946, tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập ra Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam (nay gọi là hệ phái Khất sĩ) với tôn chỉ “Nối truyền Thích Ca Chính pháp”. Năm 1947, bốn vị nữ tu đầu tiên là: Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên, Bửu Liên. Từ đó, ni giới hệ phái Khất sĩ ra đời và Ni trưởng Huỳnh Liên là trưởng nữ của đoàn thể ni trong hệ phái Khất sĩ.
Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Trừ, sinh ngày 19/3/1923 tại làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình Nho giáo sống bằng nông nghiệp. Thiếu thời, Ni trưởng học hết chương trình trung học, nhưng sau đó do hoàn cảnh nên không tiếp tục con đường học vấn. Ni trưởng được người cậu ruột là cụ Lê Quý Đàm tham gia cách mạng từ những năm 1930, là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, từng theo học trường Cao đẳng Hà Nội dạy dỗ, truyền đạt kiến thức và tư tưởng yêu nước. Trưởng thành trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, xã hội đầy dẫy áp bức bất công, Ni trưởng đã hăng hái tham gia vào các hoạt động yêu nước cùng chị em phụ nữ địa phương, sau đó, lui về làng Phú Mỹ, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường, dựng am tranh nghiên cứu kinh điển.
Đóp góp đối với dân tộc
Tại miền Nam, trong giai đoạn 1945-1975, nước nhà có nhiều biến động lịch sử, nhất là trước cảnh đồng bào và tín đồ Phật giáo chịu cảnh áp bức lầm than, cùng với những bất công trong chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Sài Gòn thời bấy giờ. Mang trong mình dòng máu yêu nước cùng với đức tính dấn thân, dám chấp nhận mọi hiểm nguy gian khổ, Ni trưởng Huỳnh Liên đã tích cực vận động chư ni, phật tử cùng tham gia vào các hoạt động đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và trường tồn đạo pháp. Trong giai đoạn này, tịnh xá Ngọc Phương do Ni trưởng Huỳnh Liên xây dựng trở thành trung tâm của ni giới hệ phái Khất sĩ, nơi đây là cũng chính là một trong những tổng hành dinh gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại Sài Gòn - Gia Định trước năm 1975 rất nổi tiếng mà Ni trưởng là người lãnh đạo tiêu biểu của ni giới.
Ngược dòng lịch sử, vào năm 1963, khi chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, với tư cách là người đứng đầu ni giới Khất sĩ, Ni trưởng đã lãnh đạo ni giới Khất sĩ, trực tiếp dẫn đầu các đoàn biểu tình tham gia các phong trào đấu tranh đòi quyền tự do tín ngưỡng của Phật giáo; kết hợp với các phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh và Nhân dân Sài Gòn - Gia Định làm bùng phát khí thế đấu tranh mạnh mẽ, đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều địa phương khác tại miền Nam… Có thể nói, khoảng thời gian dài từ năm 1963 cho đến những ngày cuối của tháng 4/1975, các hoạt động đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước của đồng bào miền Nam trong đó có tăng, ni, phật tử yêu nước ngày càng sôi nổi và phong phú với nhiều hình thức đấu tranh. Ni trưởng Huỳnh Liên có các hoạt động đấu tranh đứng ra tổ chức và trực tiếp xuống đường, điển hình như: lễ “Xuống tóc vì hòa bình”, ngày 18/10/1970; biểu tình chống Mỹ và chính quyền tay sai, ngày 25/10/1970; mít tinh ra tuyên ngôn 10 điểm về hòa bình của Mặt trận Nhân dân Tranh thủ dân chủ hòa bình, ngày 07/11/1970; thành lập chi nhánh phong trào phụ nữ đòi quyền sống tại Cần Thơ, Trà Vinh, ngày 22/11/1970; Ni trưởng phối hợp cùng với các phong trào sinh viên, học sinh… tổ chức biểu tình đòi thả tù nhân chính trị, ngày 01/01/1971; phối hợp với phụ nữ quốc tế lên án chiến tranh, vận động hòa bình, ngày 05/01/1971; tổ chức họp báo với đề tài “Nhân dân đòi cơm áo, Phật giáo đòi hòa bình” và “Nông dân đòi quyền sống”, để đòi lại ruộng đất đã bị chính quyền tay sai chiếm dụng để xây dựng các công trình phục vụ chiến tranh, ngày 07/4/1971. Tại chùa Ấn Quang, ngày 02/8/1971, Ni trưởng tham gia thành lập và giữ vai trò cố vấn cho phong trào phụ nữ đòi quyền sống, trụ sở của tổ chức này đặt tại tịnh xá Ngọc Phương.
Sau đó, Ni trưởng tiếp tục tham gia thành lập Mặt trận Nhân dân tranh thủ dân chủ hòa bình do cụ Đặng Văn Ký làm Chủ tịch. Sau khi tổ chức này được thành lập, ngày 06/9/1971, Ni trưởng tổ chức đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ phải thả tự do cho bà Ngô Bá Thành, Chủ tịch Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống; ngày 18/9/1971, nhân sự có mặt của Thượng Nghị sĩ George Stanley McGovern tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế ở đường Kỳ Đồng, Ni trưởng đã phối hợp với đồng bào Công giáo tố cáo tội ác chiến tranh. Ngoài ra, Ni trưởng còn phối hợp với sinh viên, học sinh Sài Gòn - Gia Định đấu tranh chống “Quân sự hóa học đường”; phối hợp với công nhân hãng pin Con Ó chống lại sự bóc lột và sa thải công nhân, ngày 18/11/1971…
Từ cuối năm 1971 đến đầu năm 1975, phong trào đấu tranh tiếp tục diễn ra sôi động với mục tiêu rõ rệt là đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi thả tù nhân chính trị, đòi chính quyền Sài Gòn thực hiện hiệp định Paris, đòi hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc. Trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt này, ngày 04/10/1974, Ni trưởng cùng xuống đường biểu tình với Ủy ban Chống tịch thu báo chí tại chợ Bến Thành gọi là “Đọc báo nói” cho đồng bào nghe, cuộc mít tinh được đông đảo bà con hưởng ứng, tạo nên một không khí đấu tranh hào hứng, sôi động quanh chợ Bến Thành. Ngày 10/10/1974, Ni trưởng tham dự ngày “Ký giả ăn mày”, mang theo bị gậy diễu hành quanh chợ Bến Thành, rồi đến Hạ Nghị viện, đoàn biểu tình bị cảnh sát đánh, được dân chúng bênh vực, can thiệp, sau đó trở thành cuộc mít tinh vĩ đại có đến hàng chục nghìn người tham gia… Trong giai đoạn này, chư ni tịnh xá Ngọc Phương, dưới sự lãnh đạo của Ni trưởng đã vượt rào kẽm gai, kết hợp cùng với đoàn của Ni trưởng Ngoạt Liên từ Biên Hòa về tập trung trước Nhà Hát lớn Sài Gòn phản đối chính quyền Sài Gòn phong tỏa tịnh xá Ngọc Phương, yêu cầu thả tù nhân chính trị, các nhân sỹ yêu nước, sinh viên, học sinh. Ni trưởng bị thương phải vào bệnh viện Sùng Chính băng bó, ngay sau đó, các chính khách cao cấp có xu hướng tiến bộ đã đến bệnh viện thăm Ni trưởng và tạo áp lực với chế độ Sài Gòn. Riêng tịnh xá Ngọc Phương, nơi trụ xứ của Ni trưởng, từ đầu tháng 8/1970, luôn bị chính quyền Sài Gòn giăng kẽm gai phong tỏa, cảnh sát an ninh mật vụ giám sát ngày đêm, đến 12h trưa ngày 29/4/1975, tịnh xá Ngọc Phương và ni chúng trong chùa mới được tự do đi lại…
Theo lịch sử, các hoạt động đấu tranh vì hòa bình thống nhất đất nước của nhân dân Sài Gòn - Gia Định. Những tư liệu về quá trình tham gia hoạt động trong các phong trào yêu nước của Ni trưởng Huỳnh Liên có thể nói là vô cùng phong phú, ghi lại chặng đường đấu tranh gian khổ, nhưng sáng ngời ý chí kiên cường của bậc cao ni dạt dào tấm lòng yêu nước, thương dân. Những cuộc biểu tình do Ni trưởng tổ chức và trực tiếp xuống đường đã tạo nên một khí thế đấu tranh sôi sục, đã buộc chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ phải nhượng bộ, chấp nhận thực hiện một số yêu cầu chính đáng của Phật giáo và quần chúng nhân dân. Hành trạng tích cực tham gia công cuộc đấu tranh của Ni trưởng Huỳnh Liên đã góp phần nhất định vào sự nghiệp giải phóng đất nước, ghi dấu lên trang sử hào hùng của dân tộc và lịch sử Phật giáo nước nhà.
Ghi nhận những thành quả trong quá trình cống hiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, Ni trưởng đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Quyết thắng hạng Nhất; Huy hiệu TP. Hồ Chí Minh; Bằng khen 10 năm của UBND TP. Hồ Chí Minh và nhiều danh hiệu cao quý khác. Nhất là hiện nay, tại quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh, đạo hiệu của Ni trưởng đã trở thành tên của một con đường.
Đóng góp đối với đạo pháp
Theo lịch sử của hệ phái Khất sĩ, từ khi tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng, với vị trí là trưởng nữ, Ni trưởng Huỳnh Liên đã trực tiếp lãnh đạo ni chúng Khất sĩ suốt 40 năm (1947-1987), nỗ lực chèo lái giáo đoàn ni giới Khất sĩ, truyền thừa Phật pháp sâu rộng trong quần chúng. Từ năm 1948, ni giới hệ phái Khất sĩ đã có mặt tại một số tỉnh, thành phố ở miền Nam, hình thành các đạo tràng, tịnh xá, trong đó có tịnh xá Ngọc Phương, xây dựng từ năm 1958, trùng tu năm 1972, là trung tâm của ni giới hệ phái Khất sĩ mang nhiều dấu ấn lịch sử một thời hành đạo và dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Ni trưởng.
Trong công tác trước tác, phiên dịch kinh điển, Ni trưởng đã diễn dịch một số bản kinh ra chữ Quốc ngữ, dịch phẩm và tác phẩm của Ni trưởng gồm một số kinh nhật tụng như: A Di Đà, Phổ môn, Vu lan, Hồng danh, Vô ngã tướng, Tứ Thập Nhị chương, Bát Nhã Tâm kinh, kệ Trích lục, kệ Chơn lý; biên soạn, phiên dịch và diễn giải kinh tạng để ni chúng và phật tử dễ học, lãnh hội ý pháp… Trong đó có 02 bộ là Kinh Tam Bảo và Tinh Hoa bí yếu đã được in thành tập phổ biến khắp miền Nam và miền Trung cho hơn 350 ngôi tịnh xá trực thuộc ni giới Khất sĩ đọc tụng hằng ngày trong các thời khóa. Ngoài ra, Ni trưởng còn để lại trên 2.000 bài thơ qua các thể loại và văn xuôi để giáo hóa chư ni và phật tử, đem đạo vào đời, làm lợi ích chúng sinh.
Bên cạnh đó, Ni trưởng còn rất chú trọng đến việc đào tạo nhân tài cho ni giới hệ phái Khất sĩ nói riêng và cho Phật giáo nước nhà nói chung. Ni trưởng đã nhiệt tâm đóng góp tài vật, cổ động chư ni và phật tử ủng hộ việc thành lập trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở II tại TP. Hồ Chí Minh. Từ sự động viên, khuyến khích, hỗ trợ của Ni trưởng, trong ni đoàn của hệ phái Khất sĩ có nhiều sư cô tham gia tu học và tốt nghiệp tại trường Cao cấp Phật học Việt Nam, trường Trung cấp Phật học tại TP. Hồ Chí Minh, tốt nghiệp Cử nhân Phật học và Triết học Đông phương, cử nhân Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn); các khóa Ngữ văn, Hán - Nôm, Sinh ngữ ở các trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh.
Ni trưởng còn góp phần đáng kể vào công tác từ thiện xã hội, tích cực vận động chư ni, phật tử nỗ lực đóng góp sức người, sức của để thực hiện tốt công tác an sinh xã hội như: tương trợ người già và thiếu niên tàn tật, viếng thăm, ủy lạo tại các bệnh viện, trại cùi, trường mầm non… Ni trưởng cũng nhiệt tình hưởng ứng và tích cực vận động sư cô, ni cô hai miền Trung - Nam tiết kiệm mua công trái xây dựng Tổ quốc trong nhiều đợt, ủy lạo hỏa hoạn, thiên tai bão lụt.
Về công tác đoàn thể và Giáo hội, từ ngày 20-24/10/1975, Ni trưởng tham dự Đại hội Phụ nữ Quốc tế tại Cộng hòa Dân chủ Đức; từ ngày 06-10/6/1977, Ni trưởng cùng với phái đoàn Phật giáo Việt Nam dự Đại hội Tôn giáo thế giới vì hòa bình về vấn đề giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân tổ chức tại Moscow (Liên Xô cũ); năm 1976, Ni trưởng tham gia Mặt trận Tổ quốc TP. Hồ Chí Minh với chức vụ Phó Chủ tịch; ngày 25/4/1976, Ni trưởng tham gia Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương, Phó Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh…
Tháng 02/1980, Ni trưởng là đại diện ni giới hệ phái Khất sĩ tham gia làm Ủy viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam. Ngày 07/11/1981, Ni trưởng là một trong sáu đại biểu của hệ phái Khất sĩ tham dự Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam toàn quốc, được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Tại Đại hội, Ni trưởng được bầu làm Ủy viên Kiểm soát Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và làm Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của TP. Hồ Chí Minh.
Có thể nói, trong suốt 40 năm (1947-1987) phụng sự đạo pháp và dân tộc, Ni trưởng Huỳnh Liên luôn thể hiện phẩm chất đạo đức về một tấm gương giới hạnh, xứng đáng là khuôn thước mẫu mực trong tinh thần nhập thế độ sinh, góp phần nhất định vào công cuộc thống nhất hòa bình cho đất nước và độc lập cho dân tộc. Ni trưởng là bậc danh ni đầu tiên của hệ phái Khất sĩ, tiêu biểu của ni giới thời đại đã góp công rất lớn trong việc dẫn dắt ni giới và phật tử hệ phái Khất sĩ trên con đường chính pháp và đóng góp công sức trong quá trình tham gia thành lập và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt.
Bích Ngọc