Tìm hiểu di sản văn hóa phi vật thể quốc gia lễ hội đền Mưng ở Thanh Hóa
Ngày đăng: 20/01/2025
Nằm ở phía Nam tỉnh Thanh Hóa, Nông Cống là vùng đất địa linh nhân kiệt có vị thế chiến lược trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ sản sinh ra những con người kiệt xuất cho dân tộc như: Triệu Thị Trinh, Lê Mã Lương,.. mà còn là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa độc đáo, điển hình là các lễ hội truyền thống của địa phương, trong đó có lễ hội đền Mưng thuộc xã Trung Thành, huyện Nông Cống. Nơi đây được coi là trung tâm của hệ thống tín ngưỡng đức thánh lưỡng ngũ vị thờ thánh hiệu là Tham Xung Tá Quốc được tổ chức vào ngày chính kỵ là ba ngày (từ ngày mồng 5 đến mồng 8/3 Âm lịch) hằng năm. Lễ hội đền Mưng lan tỏa những giá trị giáo dục trong phần lễ và nét sinh hoạt đặc sắc trong phần hội, thể hiện tính văn hóa tốt đẹp, tinh thần thượng võ của dân tộc qua múa hát, chèo bơi, chèo đua, chèo cạn, chèo thờ.

* Đền Mưng ở làng Mưng

Làng Mưng từ xa xưa đã có những sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Nơi đây không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa vật thể mà còn bảo lưu văn hóa phi vật thể. Đó là một quần thể đền, đài, miếu mạo cùng với những lễ hội đặc sắc, trong đó có đền Mưng, nơi thờ Thánh Lưỡng Tham Xung Tá Quốc. Thánh Lưỡng Tham Xung Tá Quốc húy danh Lê Hữu là con trai út của Lê Ngọc (tên thật là Lê Cốc), làm Thái thú quận Cửu Chân dưới thời Tùy Đại Nghiệp. Thế kỷ VII, vì không phục nhà Đường, Lê Hữu cùng cha và các anh em cố kết lòng dân dũng cảm đứng lên tụ binh khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược nhà Đường, lấy quận Cửu Chân làm căn cứ. Trong chiến đấu, cha con ông Lê Ngọc thất bại, Lê Hữu bị chém rơi đầu. Theo truyền thuyết, ông đã biến hóa ôm đầu nhảy lên ngựa chạy đến bờ sông Cổ Định thì hóa. Người chị gái đi tìm em, đến bờ sông Cổ Định (tức sông Lãng) biết em đã hy sinh nên nhảy xuống sông tự vẫn, xác trôi đến ngã ba sông, được dân sở tại vớt lên lập đền thờ. Ghi nhớ công ơn của cha con ông Lê Ngọc, nhân dân trong vùng đã lập bàn thờ để hương khói. Đến thời Hậu Lê, nhân dân quanh vùng xây dựng thành đền thờ gọi là đền Mưng, thuộc làng Mưng, tức làng Côn Sơn, xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.

Ngôi đền Mưng thờ Thánh Lưỡng xưa kia có quy mô to lớn, nguy nga đồ sộ nhất vùng, nằm bên bờ hữu ngạn sông Lãng. Theo các cụ kể lại thì đền xưa có hậu cung chính tẩm, 5 gian tiền tế, có sân chầu rộng thênh thang, có giải vũ hai bên và tường bao quanh, có nghi môn tam quan. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đền Mưng bị ném bom phá hoại. Trải qua bao năm tháng, đền Mưng chỉ còn là phế tích. Với sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân làng Côn Sơn sau này đã khôi phục lại đền Mưng cùng với các hoạt động của lễ hội đền Mưng. Hiện nay, khu di tích đã được đầu tư xây dựng mới 3 gian chính tẩm, 5 gian tiền đường, 3 gian nhà khách phía Tây và nâng cấp toàn bộ hệ thống khuôn viên nhà đền. Bên cạnh đó, địa phương cũng đã duy trì nhiều phong tục truyền thống như: việc cúng tế, hát chèo thờ trên sông và trên cạn; rước cỗ của các ngõ xóm, dòng họ, các bản hội và 5 chi kỵ trong vùng Cầu Quan. Thông qua lễ hội đền Mưng đã góp phần tạo nên sự phong phú trong đời sống tâm linh của nhân dân làng Côn Sơn, đồng thời tạo được sự gắn kết cộng đồng với các làng lân cận. Năm 1994, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh) cấp Bằng công nhận đền Mưng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Cứ đến dịp lễ hội, năm nào cũng như năm nào, nhân dân trong vùng lại tạm gác lại mọi công việc để kéo nhau đến dự lễ hội đền Mưng.

* Lễ hội đền Mưng - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Lễ hội đền Mưng có truyền thống lịch sử được gần 1.400 năm là lễ hội lớn, đặc sắc trên địa bàn huyện Nông Cống. Theo tục lệ, lễ hội đền Mưng một năm tổ chức hai lần. Lần thứ nhất là lễ hội bơi thờ (đua thuyền trên sông Lãng đoạn gần đền Mưng); lần thứ hai là chính kỵ và lễ hội chèo thờ. Chính kỵ là ba ngày (từ mồng 5 đến mồng 8/3 Âm lịch), nhưng lễ hội đền Mưng đã được chuẩn bị và bắt đầu từ tháng Giêng. Đó là những cuộc hát ghẹo được diễn ra ở hai bờ sông, kéo dài hết đêm này sang đêm khác, đặc biệt trong dịp này có hình thức bơi đua là sôi nổi nhất. Kết thúc cuộc thi bơi, nhân dân trong tất cả các làng lại tất bật chuẩn bị cho ngày kỵ: tập hát, tập chèo thuyền, may sắm quần áo, chuẩn bị thóc gạo, thực phẩm, sửa sang các loại thuyền, quét dọn đường làng, ngõ xóm, đền, đình... Suốt thời phong kiến, đền Mưng luôn là ngôi đền được xếp vào hàng “Quốc tế” được triều đình cử quan đại thần về tế, vì thế, lễ hội luôn thu hút cả một vùng rộng lớn từ Đông Sơn, Triệu Sơn, Nông Cống hướng về. Riêng Nông Cống có tới 18 làng trực tiếp tham gia lễ hội với tất cả niềm thành kính. Phần lễ và phần hội được diễn ra trong không gian rộng lớn từ đền Mưng - sông Lãng Giang - ngã ba Vua Bà (đền Thánh Mẫu) với sự tham gia của nhân dân làng Mưng, xã Trung Thành và nhân dân các vùng lân cận.

Lễ công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia lễ hội đền Mưng

Trong lễ hội đền Mưng, trò hát chèo thờ làng Mưng, một hình thức diễn xướng đã trở thành môn nghệ thuật sân khấu độc đáo, nổi bật riêng biệt của làng Mưng. “Trên đền trò hát, dưới sông chèo thuyền” là câu nói về những trò diễn chính tiêu biểu của lễ hội đền Mưng. Từ xa xưa tục chèo thờ được tổ chức 5 năm một lần, có câu ca: “Năm năm có một khóa chèo/ Nghèo thật là nghèo, vui thật là vui”. Hát chèo đền Mưng là một loại hình sinh hoạt văn hóa độc đáo, mang đậm sắc thái bản địa riêng, chỉ được sử dụng trong lễ hội đền Mưng từ ngày mồng 5 đến mồng 8/3 Âm lịch. Hát chèo thờ ở đây là hát hầu Thánh, hay còn gọi là thờ Thánh trong lễ hội đền Mưng, chỉ có lễ hội đền Mưng thì mới có hát chèo thờ. Hát chèo thờ có hai loại là hát chèo cạn diễn ra tại sân đền Mưng và hát chèo thờ dưới nước rước Thánh diễn ra trên sông Lãng Giang. Mỗi loại đều có cách trình diễn, lời ca, tiết tấu và giai điệu khác nhau.

Hát chèo thờ dưới nước rước Thánh: nhân dân trong vùng thường thiết lập một đội chèo cho 5 thuyền rồng: hai thuyền phát đường, một thuyền đặt hương áng, một thuyền Thánh ngự, một thuyền phủ giá. Dưới bến Đá, 5 thuyền rồng lớn, trang trí nhiều màu sắc rực rỡ, lòng thuyền làm thành nhà có mái che, hai bên mạn thuyền mỗi bên có sáu cửa hoa, mỗi cửa hoa đặt một mái chèo sơn son, phía trong là ghế ngồi của quân bơi... đã đậu sẵn, tất cả mũi thuyền đều quay về xuôi. Từ bến Đá xuôi theo dòng Lãng Giang đến ngã ba Tam Giang rồi lên đền Vua Bà dài 7 km. Hai thuyền phát đường đi trước mở đường gọi là khai lộ, tiếp sau là thuyền hương án hay gọi là thuyền soạn cụ, tiếp đến là thuyền Thánh ngự hay gọi là thuyền chính ngự, sau cùng là một thuyền phủ giá chở các thứ lặt vặt nhằm phục vụ nhu yếu phẩm cho bốn thuyền đi trước. Mỗi thuyền 12 cô gái thanh tân chèo thuyền, ăn mặc giống như người hát chèo cạn trên sân đình, đợi đón thánh trẻ Tham Xung Tá Quốc rước về đền Vua Bà, làng Bẩy, xã Tế Tân thăm chị gái là Trịnh Liệt Tam Giang thần Mẫu. Những người này được gọi là nữ quan, là những thiếu nữ mới lớn, con nhà gia thế hoặc những gia đình có gia phong được nhân dân trong làng tín trọng. Khi nghe hiệu lệnh phát ra từ trên án thờ, các quân bơi bước xuống thuyền, treo nón lên vách, ngồi vào ghế, tay cầm mái chèo son. Đoàn thuyền đi đến đâu đều vang lên những tiếng hò chèo thờ đến đó. Theo nhịp trống, nhịp sênh, quân bơi tay chèo, miệng hát khoan thai nhịp nhàng rằng: Cầu Quan vui lắm ai ơi/ Trên thì họp chợ dưới bơi thuyền rồng.

Hò chèo thờ có hai điệu là chèo khoan và chèo đấu. Điệu chèo khoan thì khoan thai, nhịp nhàng người xướng ngân nga câu lục bát và tất cả hò dậm “Huầy! dô huầy dô ta! hò là dô huầy!”. Ngược lại, điệu hò chèo đấu lại có nhịp khẩn trương, gấp gáp, thể hiện không khí vui tươi, nhộn nhịp của lễ hội và được đệm là “ớ khoan”. Đôi khi là hát đối đáp giữa quân bơi dưới thuyền với người trên bờ sông. Khi đoàn thuyền đi đến làng nào, các nữ chèo đều có các làn điệu hát vịnh và đối đáp với nhân dân làng đó. Khi thuyền đến bến Đông, thuộc xã Trung Chính, nữ quan sẽ hát: “Thuyền Rồng đã đến làng Đông/ Con gái làng Chợ xuống sông chào thuyền”. Khi đến làng Vặng, thuộc xã Trung Ý, nay là xã Trung Chính, nơi có vực Si, nữ chèo sẽ hát rằng: “Thuyền Rồng đã đến vực Si/ Con gái làng Vặng làm chi ở nhà?”. Trên bờ, trai gái trong làng ra xem thuyền chải hát đối đáp lại: “Làng Vặng đang xáo cỏ cà/ Nghe tiếng thuyền chải em ra mừng thuyền”. Cứ như vậy, đoàn thuyền rước Thánh Lưỡng từ đền Mưng xuống đền Tam Giang, Thánh Lưỡng được rước lên đền, tổ chức tế lễ, sau đó lại được rước về đền Mưng.

Hát chèo cạn tại sân đền Mưng: sáng mng 5/3 Âm lịch, sau cuộc đại tế, hát chèo cạn bắt đầu tại sân đền Mưng. Dân làng lúc này sẽ đặt một thuyền rồng khung bằng tre đan chính giữa sân, bọc vải đỏ, không có đáy, lấy hướng chính tẩm làm hướng cho đầu thuyền. Sẽ có 12 người phụ nữ mặc áo mớ ba, vấn khăn đỏ, tóc bỏ đuôi gà, yếm đào, váy lĩnh, thắt lưng xanh đứng vào lòng thuyền thành hai hàng dọc theo mạn thuyền, mỗi người cầm một mái chèo, miệng hát tay chèo theo nhịp trống: ... Hàng năm cứ đến tháng Ba/ Vui chung tế kỵ, dân ta chèo thuyền. Trong dịp lễ Thánh ở đền Mưng, chỉ diễn bốn vở chèo nổi tiếng là: Tống Trân Cúc Hoa, Thục Vân hiếu nghĩa, Tuấn Khanh, Lưu Quân Bình. Nhân dân vừa là khán giả, vừa là diễn viên biểu diễn mừng Thánh, qua đó đem lại niềm hạnh phúc sâu lắng, thiêng liêng trong cộng đồng. Các nghệ nhân cho biết: so với chèo nơi khác đệm bằng “i” để luyến láy cho óng mượt câu hát thì chèo làng Mưng lại dùng a ở mỗi đoạn, mỗi câu. Văn trong kịch sử dụng phần lớn là sử dụng thể thơ 4 chữ, ngoài ra còn có các thể thơ 6/8, thơ 8 chữ cùng những đoạn văn xuôi đối thoại. Chèo làng Mưng chủ yếu dùng các làn điệu mang sắc thái, âm điệu của dân ca Thanh Hóa như: vãn tuyết sương, vãn lên đường, vãn khổng, hát chú tiếu, hát than, đào lý một cành, đò đưa, nói nhịp một, hát lão say... bên cạnh đó cũng sử dụng một số làn điệu chèo đồng bằng Bắc Bộ như: nói lối, nói sử, hát cách Vở diễn kể chuyện bằng hành động, không chia màn cắt cảnh đưa những người tham dự lễ hội về với các tích xưa, có trai tài gái sắc, đức hạnh chiến thắng xấu xa... Hiện nay, nhân dân và chính quyền địa phương vẫn đang tích cực tìm tòi, sưu tầm những văn bản về chèo cổ, hệ thống lại một cách bài bản, kết hợp với các nghệ nhân cao tuổi truyền dạy lại cho thế hệ trẻ để không bị mai một đi một loại hình văn hóa có giá trị của địa phương.

Có thể nhận thấy lễ hội đền Mưng không chỉ là nơi thể hiện tấm lòng biết ơn của nhân dân đối với những vị Anh hùng của dân tộc mà còn là một loại hình văn hóa dân gian mang hơi thở cuộc sống, là bức tranh sinh hoạt của cộng đồng dân cư, nơi cố kết cộng đồng, thể hiện tinh thần đoàn kết yêu thương lẫn nhau của nhân dân trong vùng rộng lớn ở Thanh Hóa.

Đến với lễ hội đền Mưng, nhân dân còn được tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống như: đua thuyền, hát chèo thờ (chèo cổ) trên sông Lãng, thi chọi gà, bắt vịt trên sông... và các môn thi đấu thể thao hiện đại như: bóng chuyền, bóng bàn... mà nhân dân địa phương lưu giữ cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Lời kết

Trải qua bao năm tháng, lễ hội đền Mưng có một vị trí, vai trò nhất định đối với lịch sử của dân tộc, đặc biệt nó đã thấm vào máu thịt của các thế hệ nhân dân làng Côn Sơn, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu, làm phong phú đời sống tinh thần, góp phần quan trọng vào việc giáo dục truyền thống cách mạng, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, giáo dục nhân cách, văn hóa tư tưởng, tạo nên sự đoàn kết đồng thuận trong nhân dân. Lễ hội Đền Mưng là sinh hoạt tín ngưỡng dân gian được hình thành trong cộng đồng dân cư ở vùng ven sông Lãng từ rất lâu đời. Các hình thức tế lễ, tục lệ, trò diễn dân gian cùng các làn điệu dân ca ở đây mang đậm nét sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, phản ánh ước muốn của người nông dân là mùa màng tươi tốt, con người hòa thuận, nhân khang, vật thịnh. Với ý nghĩa và giá trị của mình, lễ hội đền Mưng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4605/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019. Đây là niềm vinh dự, tự hào của quê hương Nông Cống nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Hiện nay, ở địa phương đã, đang nỗ lực hết sức để quản lý tốt nguồn tài nguyên nhân văn này, nâng lễ hội đền Mưng lên tầm cao mới để mang đến cho người dân một không gian văn hóa lành mạnh cũng là góp phần vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.

Minh Châu

Tài liệu tham khảo:

1. Chèo thờ làng Mưng, báo điện tử Đại biểu nhân dân.

2. Lễ hội đền Mưng - nét đẹp truyền thống đậm đà bản sắc xứ Thanh, báo Thanh Hóa.

3. Lễ hội đền Mưng xã Trung Thành được công nhận danh mục di sản phi vật thể cấp Quốc gia, Công thông tin điện tử huyện Nông Cống.

4. Thanh Hóa: lễ hội đền Mưng là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, báo Văn hóa.

5. Thanh Hóa: Công bố danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia lễ hội đền Mưng, báo Thanh Hóa.