Người Tày ở tỉnh Tuyên Quang và tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
Ngày đăng: 25/02/2025Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là loại hình tín ngưỡng tồn tại từ lâu đời, phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của các dân tộc. Người xưa đã quan niệm “chim có tổ, người có tông”, nên ý thức về việc thờ cúng Tổ tiên luôn được coi trọng và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành đạo lý và nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Người Tày luôn nhận thức “vạn vật hưu linh”, mọi vật đều có linh hồn, vì thế họ có quan niệm xác và linh hồn vừa gắn chặt với nhau vừa tách rời nhau. Con người khi chết đi sẽ chuyển sang “sống” ở một thế giới khác gọi là “cõi âm”. Người trên dương gian sẽ thực hiện nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ giữa người sống với người chết, giữa thế giới hiện tại với “cõi âm”. Người trên dương gian sẽ thực hiện nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ giữa giữa người sống với người chết, giữa thế giới hiện tại với “cõi âm”. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Tày được thể hiện rõ trong các nghi lễ cúng Tổ tiên trong gia đình, dòng tộc, cộng đồng. Xu thế hội nhập, toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực hiện nay đã tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của các dân tộc, trong đó có người Tày ở tỉnh Tuyên Quang.
Người Tày là một cộng đồng tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, đã có mặt ở vùng Đông Bắc Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Do sự cộng cư lâu đời trên cùng một vùng lãnh thổ và có sự tiếp xúc thường xuyên với người Tày, một bộ phận người Nùng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Tày và gia nhập cộng đồng người Tày. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/4/2019, tỉnh Tuyên Quang có 784.811 người, gồm 23 dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm khoảng 25%. Ở nông thôn, người Tày thường sống tập trung thành từng làng (bản), tạo thành các quần thể riêng, đây là đặc điểm nổi bật của các làng người Tày truyền thống. Còn ở các vùng thành phố, thị trấn họ sống xen kẽ với các dân tộc khác, chủ yếu là dân tộc Việt (Kinh). Trong quá trình tồn tại và phát triển, người Tày và các dân tộc khác như Kinh, Dao, Sán Dìu,… có sự giao thoa văn hóa lẫn nhau.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Tày ở tỉnh Tuyên Quang chịu sự ảnh hưởng khá sâu đậm của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đặc biệt là văn hóa Việt (Kinh). “Sự ảnh hưởng của Tam giáo đối với đời sống người Tày mãi về sau mới xuất hiện, đó là khi họ tiếp xúc với người Kinh và người Hán, được thể hiện rõ trong thờ cúng ông bà, các lễ tiết, lễ nghĩa trong gia đình và cộng đồng”. Sự ảnh hưởng đó thể hiện qua các con đường sau:
Thứ nhất, các yếu tố Đạo giáo, Phật giáo từ người Hán ở Trung Quốc truyền vào người Choang, sau đó kết hợp với tín ngưỡng dân gian mà hình thành nên tín ngưỡng người Choang. Sau đó tín ngưỡng người Choang đã đi theo chân các cuộc di cư của nhóm Nùng, Ngạn, Phén,… vào Việt Nam. Trong quá trình giao lưu trao truyền nghề nghiệp của các thế hệ thầy cúng, đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Tày ngày nay đã dần hình thành.
Thứ hai, Đạo giáo từ người Hán Trung Quốc truyền vào một bộ phận người Việt (Kinh) ở phía Bắc Việt Nam, kết hợp với các yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt (Kinh) như tam phủ, tứ phủ,…Tiếp theo, thông qua các cuộc di cư của người Việt (Kinh) lên vùng người Tày, kết hợp với các tín ngưỡng dân gian bản địa và kết hợp với các yếu tố du nhập từ người Nùng gốc Choang mà làm nên diện mạo mới trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Tày hiện nay.
Thứ ba, đó là khả năng tín ngưỡng người Choang theo chân các thầy cúng vào khu vực cư trú của người Tày được một thời gian, sau đó bộ phận thầy cúng này lại chuyển cư tiếp về xuôi tiếp tục hành nghề trong sự giao lưu tiếp biến cùng với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt (Kinh). Sau nhiều đời, vì những lý do khác nhau mà bộ phận con cháu này lại quay trở lại khu vực cư trú của người Tày và tiếp tục hành nghề, truyền nghề tạo nên diện mạo khác cho nghề cúng của họ.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên trong bài viết này bao gồm Tổ tiên gia đình, Tổ tiên dòng họ, tổ ngành nghề và được thể hiện qua các nghi lễ thờ phụng; qua đó, phản ánh tâm lý của người Tày nói chung luôn ghi nhớ công của những người đầu tiên khai cơ lập nghiệp cho gia đình, làng bản. Đạo lý biết ơn và tiếp nối truyền thống của Tổ tiên được thể hiện thông qua các nghi thức, không gian, thời gian thờ cúng có tính chất huyền bí thiêng liêng. Đặc biệt ý thức tưởng nhớ về cội nguồn, đạo hiếu, đạo làm người của người Tày ở tỉnh Tuyên Quang được thể hiện rõ trong các nghi lễ thờ cúng Tổ tiên gia tộc, thờ cúng tổ nghề.
Thờ cúng Tổ tiên gia tộc giữ vị trí quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của người Tày ở tỉnh Tuyên Quang. Mỗi gia đình của người Tày đều thiết lập bàn thờ Tổ tiên. Bàn thờ là không gian thiêng liêng để các thành viên trong gia đình thể hiện, gửi gắm lòng tưởng nhớ, biết ơn Tổ tiên; là nơi Tổ tiên “đi”, “về” và ngự trên đó. Bàn thờ Tổ tiên của người Tày thường được lập cố định, ở chỗ trang trọng nhất trong gia đình hoặc gian giữa chính của ngôi nhà sàn truyền thống.
Nghi lễ thờ cúng Tổ tiên gia tộc của người Tày gồm có nghi lễ thường kỳ và nghi lễ không thường kỳ. Nghi lễ thường kỳ là nghi lễ mang tính chất truyền thống theo lịch tiết quy định hằng năm. Trong các ngày lễ, Tết, thắp hương bàn thờ Tổ tiên hưởng lễ là việc làm không thể thiếu được của mọi gia đình. Dân tộc Tày có 3 ngày tết lớn, đó là tết Nguyên đán, tết tảo mộ (03/3) và tết rằm tháng bảy (14/7 tính theo âm lịch). Trong đó, tết Nguyên đán là tết quan trọng nhất, đánh dấu thời điểm chuyển năm cũ sang năm mới.
Tết Nguyên đán, bàn thờ Tổ tiên được lau dọn sạch sẽ, thay cát hoặc tro cắm chân hương trong bát hương; nhưng họ không bỏ toàn bộ chân hương đi mà bao giờ cũng giữ lại vài ba chân hương, với ý nghĩa đó là dấu hiệu để cho Tổ tiên nhận biết khi tìm về với con cháu để hưởng lễ. Trên bàn thờ cắm vài cây tiền làm bằng giấy bản gập bằng hình khối rồi xâu lại với nhau. Theo quan niệm của người Tày, cây tiền chính là những “thỏi vàng”, “đĩnh bạc” để cúng nạp thần linh, mong được thần ra tay, phù hộ, che chở và đồng thời đó cũng là một món tiền tặng cho những người thân quá cố, để họ tiêu xài ở thế giới bên kia. Cạnh bàn thờ treo vài chiếc áo hàng mã cắt bằng giấy với nhiều màu sắc khác nhau tượng trưng cho những tấm áo mới mà con cháu may tặng Tổ tiên, ông bà. Dọc hai bên bàn thờ buộc 2 cây mía còn lá tượng trưng cho những cây gậy mà lúc sinh thời các cụ già vẫn dùng để chống trong lúc đi đường. Mỗi dòng họ người Tày có thể chọn ngày hóa vàng khác nhau, có dòng họ là mùng một tết, dòng họ khác lại là mùng hai hoặc mùng ba tết. Người Tày quan niệm trước đây do đang ăn tết mùng một hoặc mùng hai, mùng ba thì chiến tranh loạn lạc xảy ra nên phải hóa vàng luôn, từ đó tạo nên truyền thống hóa vàng khác nhau ở mỗi dòng họ.
Tết Thanh minh được tổ chức vào ngày 03/3 âm lịch. Ở dịp tết này, người ta kể tóm tắt lai lịch, công lao và đức độ của người dưới mộ cho những người có mặt dự tảo mộ cùng nghe. Lễ tảo mộ của người Tày cũng gắn với ý nghĩa của tết Hàn thực và tích về Giới Từ Thôi (Trung Quốc). Hầu hết các thứ lễ vật đi cúng mộ như xôi cẩm, các loại bánh, các món ăn đều làm từ hôm trước để sáng hôm sau đi tảo mộ được nhanh chóng. Còn vàng, hương, quần áo giấy, tiền giấy,… đều đã được chuẩn bị từ nhiều hôm trước. Tảo mộ là việc dọn sạch cỏ dại ở trên mộ và quanh mộ, đắp lại nấm mộ cho cao và gọn ghẽ, quét vôi lại bia mộ, dọn sạch sửa sang lại sân mộ và sân sơn thần. Ngoài ra người ta còn cắm ở trên trốc mộ một cây “nêu” nhỏ, trên ngọn có gài một chum giấy tiền để báo sơn thần và những mộ xung quanh biết rằng mộ này đã được con cháu đến tảo. Sau đó con cháu người đã mất bày lễ, rót rượu và thắp hương, cúng bái, cuối cùng là đốt vàng mã. Khi mọi việc đã xong, thông thường mọi người thu dọn đi về, tuy nhiên, ở một số nơi, lúc này mọi người sẽ ngồi vào mâm ăn uống ngay tại chỗ. Ngày tảo mộ là ngày lễ thiêng liêng mang ý nghĩa sâu sắc, biểu thị lòng biết ơn của người sống đối với người đã mất, vì vậy các con cháu dù đi làm ở nơi xa đều cố gắng thu xếp để về dự.
Người Tày quan niệm Tết Rằm tháng Bảy là tết lớn thứ hai sau Tết Nguyên đán. Đây là dịp cúng Tổ tiên và các vong linh với ý nghĩa “xá tội vong nhân”. Theo quan niệm dân gian, ngày 14/7 Âm lịch là ngày vua trên thiên đình cho phép các linh hồn người chết xuống trần gian đi chơi và đi kiếm ăn. Do vậy, ngày đó gia đình nào không làm lễ mời Tổ tiên thì Tổ tiên sẽ bị đói. Các vong linh bị đói sẽ quậy phá người sống. Đây cũng là dịp con cháu làm lễ cúng báo đưa vong hồn đã đủ thời gian quy tiên (về với Tổ tiên) từ nơi thờ riêng ở phía dưới thấp lên bàn thờ Tổ tiên. Trong dịp tết này người Tày làm nhiều món ăn như thịt vịt, thịt lợn, bánh gai, bún,…; họ dâng cúng và đốt vàng mã, tiền với mong muốn Tổ tiên có thể tiêu ở thế giới bên kia. Dịp này người Tày kiêng ăn thịt gà vì có câu: “Bươn chinh bấu kin nựa pắt, bươn chất bấu kin nựa cáy”, nghĩa là “Tháng Giêng không ăn thịt vịt, tháng Bảy không ăn thịt gà”.
Vào ngày mùng Một và ngày Rằm hằng tháng, người Tày ở một số địa phương như Hà Giang, Cao Bằng thường đặt lễ, thắp hương trên bàn thờ Tổ tiên, tương tự như người Việt (Kinh), tuy nhiên, đa số người Tày ở Tuyên Quang không duy trì truyền thống này. Ngoài những nghi lễ thường kỳ, người Tày còn có các nghi lễ không thường kỳ, trong đó đặc biệt có nghi lễ tạ tổ, người Tày gọi là “giải hạn”. Khi gia đình có người hoạn nạn hoặc ốm đau,… gia chủ xem bói nếu thầy phán rằng bị Tổ tiên quở trách thì gia đình phải sắm lễ vật nhờ thầy cúng tạ Tổ tiên tại nhà hay tại mộ. Ngoài ra, vì Tổ tiên được coi là một vị thần bản mệnh, có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự hưng thịnh của gia đình nên mỗi khi có việc như cưới xin, ma chay, cưới hỏi, làm nhà, thậm chí con cháu đi làm ăn, đi học ở xa họ cũng sắm lễ vật hoặc thắp nén hương trình báo, xin phép Tổ tiên, mong Tổ tiên phù hộ.
Ý niệm thiêng liêng trong thờ cúng Tổ tiên của người Tày thể hiện nếp sống đạo đức “uống nước nhớ nguồn”, lòng thành kính được thể hiện qua việc dâng lễ cúng Tổ tiên vào những ngày lễ, tết hoặc khi gia đình có việc lớn như làm nhà, cưới xin,… Càng thực hiện được sự cúng lễ Tổ tiên chu đáo, đầy đủ, thành tâm bao nhiêu thì con cháu càng thấy thanh thản bấy nhiêu. Triết lý đề cao chữ Hiếu của Nho giáo, thuyết nhân quả của Phật giáo đã củng cố thêm ý nghĩa tục thờ cúng Tổ tiên của người Tày. Việc thờ cúng Tổ tiên gia tộc cho thấy giữa người chết và người sống như không còn chia cắt, quá khứ và hiện tại như hòa quyện vào nhau.
Người Tày ở tỉnh Tuyên Quang quan niệm, thờ tổ sư chính là thờ tổ nghề, người phát minh, sáng lập, gây dựng nên một nghề hoặc là người đầu tiên đem nghề ở nơi khác truyền lại cho những người trong gia tộc. Tiêu biểu nhất trong tín ngưỡng thờ tổ sư của người Tày ở tỉnh Tuyên Quang là thờ tổ sư của những người làm nghề thầy cúng. Thờ cúng tổ sư trong các gia đình thầy cúng theo một hệ thống nhất định như sau: thờ Tổ tiên của gia đình nói chung (bao gồm cả những người làm nghề thầy cúng của gia đình từ nhiều đời trước); thờ Tổ tiên sinh ra nghề thầy cúng của gia đình (các thầy cha, thầy mẹ đã truyền nghề cho người làm thầy cúng đầu tiên của gia đình); thờ thầy cha, thầy mẹ của bản thân người đang làm thầy cúng (bao gồm cả những người đã chết và đang sống); thờ tổ nghề thầy cúng gồm các thiên tướng và binh mã, bao gồm có Cha (Ngọc Hoàng Thượng Đế) và Mẹ (Phật Bà Quan Âm),... Đối với những người làm nghề thầy cúng thì bát hương thờ tổ sư thường đặt cùng gian với Tổ tiên nhưng ở vị trí cao hơn và chính giữa, còn bát hương Tổ tiên thì đặt ở bên cạnh, phía bên trái. Trước rèm thờ tổ sư có treo nhiều hình con én bằng giấy màu, bởi theo quan niệm dân gian của người Tày thì con én chính là việc thông tin qua lại giữa thầy cúng với thần linh. Mỗi lần tổ chức cúng bái tại nhà hoặc khi khi đi cúng bái ở đâu đó, thầy cúng phải thắp hương trên bàn thờ tổ sư (người ở nhà không được để hương bị tắt cho đến khi thầy cúng về đến nhà) để xin phép đưa âm binh đi cùng (trước khi đi) hay trình báo sự việc vừa mới xảy ra (sau khi trở về). Theo quan niệm của người Tày ở Tuyên Quang, với những gia đình, dòng họ đã từng có người làm nghề thầy cúng nhưng đời sau chưa có ai nối nghề mà bỏ không thờ bát hương của tổ sư nữa thì sẽ gặp những điều không may mắn trong cuộc sống.
Kim Anh
Tài liệu tham khảo:
1. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn âm Khoa học Xã hội Việt Nam, (2021).
2. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn hóa Tày, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày - Nùng, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.