Tìm hiểu nội dung tín ngưỡng, tôn giáo trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Ngày đăng: 25/05/2021
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt Nam (viết tắt là Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII) vừa được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật phát hành tháng 3/2021, bao gồm 02 tập, 646 trang trong đó thể hiện toàn văn bài diễn văn khai mạc; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025; báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng; Báo cáo tiếp thu, giải trình của Đoàn Chủ tịch Đại hội về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết Đại hội; phát biểu của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và diễn văn bế mạc Đại hội.

Thông qua các văn kiện, Đại hội đã tổng kết, đánh giá, dự báo, đề ra mục tiêu tổng quát và cụ thể cùng phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo, phát triển đất nước giai đoạn 5 năm (2021- 2025), 10 năm (2021 - 2030) và tầm nhìn đến năm 2045 một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối nội và đối ngoại, trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

Nội dung tín ngưỡng, tôn giáo được đề cập đến trong hầu hết các văn kiện của Đại hội, trực tiếp tại Diễn văn phát biểu khai mạc, Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng hoặc được đề cập chung trong vấn đề phát triển văn hóa, xây dựng con người và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tại phát biểu bế mạc và Nghị quyết của Đại hội.

Trước hết, phần tổng kết nhiệm kỳ XII và nhìn lại 35 năm đổi mới

Trong phần tổng kết nhiệm kỳ XII và nhìn lại 35 năm đổi mới nội dung tín ngưỡng, tôn giáo được đề cập chủ yếu trên phương diện phát triển văn hóa, xã hội, và con người. Cụ thể các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XIII có những nhận định, đánh giá nhất quán như sau:

­- “Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội (…) Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hậu hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng. Từng bước hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo[1].

- Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo[2].

- “Môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc. Quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi[3]. Nhận định này được nhắc lại trong báo cáo “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030”: “Quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng, thông tin truyền thông nhiều mặt còn bất cập[4].

Về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), 10 năm (2021 - 2030), tầm nhìn đến năm 2045

Nội dung tôn giáo, tín ngưỡng được dành thời lượng khá nhiều trong các văn kiện của Đại hội khi đề cập đến phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), 10 năm (2021 - 2030) và tầm nhìn đến năm 2045. Trước hết, trình bày tại Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhận định:

“Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo; hòa bình, hợp tác, liên kết để phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia. tăng trưởng kinh tế thế giới có khả năng chậm hơn giai đoạn trước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh, sâu rộng đến mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường; các thách thức về biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, sử dụng, nguồn nước xuyên biên giới, nhất là nguồn nước sông Mê Kông, thiên tai, dịch bệnh và thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng. Trong nước, thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn nhiều cả về quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn tới nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro (nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, khả năng tụt hậu xa hơn về kinh tế, độ mở của nền kinh tế lớn,..). Các vấn đề xã hội gây áp lực lớn đến phát triển kinh tế - xã hội (già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo và trình độ phát triển, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19,..)”. Những vấn đề này đặt ra yêu cầu “không chỉ hóa giải các nguy cơ, thách thức mà còn phải tích cực, chủ động trước thời cơ mới khi cấu trúc kinh tế thế giới, quản trị toàn cầu được định hình lại, phương thức sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống xã hội thay đổi sau đại dịch Covid-19”[5].

Từ những nhận định trên, với các mục tiêu “phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức sáng tạo của mỗi cá nhân; từng bước xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống nhân dân”[6], “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[7]; phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo giai đoạn 5 năm (2021 - 2025), 10 năm (2021 - 2030) và tầm nhìn đến năm 2045 được nêu trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, bao gồm:

- Trong “Diễn văn khai mạc”, phần “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”, văn kiện nêu rõ: “Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”[8].

- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII  trình bày tại Đại hội, phần định hướng “Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” (mục VII), để góp phần “xây dựng môi trường văn hóa thực sự trong sạch, lành mạnh”, “tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam”; “từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”,… công tác tôn giáo, tín ngưỡng thời gian tới có nhiệm vụ: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”[9]. “Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan[10].

Tại mục XII “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân”, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII  trình bày tại Đại hội tiếp tục dành tới 12 dòng cho công tác tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó một lần nữa nhắc lại chủ trương “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”. Cụ thể trong mục này, Báo cáo nêu:

Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc[11].

- Trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, phần phương hướng, nhiệm vụ giải pháp (mục V, điểm 6), Văn kiện nêu: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”[12]; “Xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng”. Kịp thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, gây bức xúc trong dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân[13].

- Đối với phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII, trong nhiệm vụ, giải pháp “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và chính quyền các cấp. Chú trọng công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài[14] .

- Trong nghị quyết của Đại hội, phần nội dung “Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030” nêu : “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường.., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”[15]. “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường, văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh (…); quan tâm đến mọi người dân. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[16].

Thay lời kết

So với các kỳ Đại hội trước, tại Đại hội lần này, nội dung tín ngưỡng, tôn giáo được Đảng ta quan tâm nhiều hơn, thể hiện qua thời lượng, số lần đề cập đến trong các văn kiện.

Quan điểm của Đảng thể hiện trong các văn kiện Đại hội thứ XIII về tôn giáo, tín ngưỡng và công tác tín ngưỡng, tôn giáo là nhất quán và xuyên suốt trên cơ sở tiếp nối, phát huy đường lối, chủ trương của các giai đoạn trước, hướng tới nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân phù hợp với nhu cầu và bối cảnh mới. Đặc biệt lần đầu tiên trong văn kiện đại hội của Đảng đề cập đến vấn đề “tâm linh” và thể hiện công khai chủ trương “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”, góp phần vào việc “giữ gìn, nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”; đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo” trong thời gian tới.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, các văn kiện của Đại hội đồng thời chỉ rõ các giải pháp, trong đó tập trung vào một số giải pháp như: (1) “Xây dựng nhà nước kiến tạo, chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ; nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch”; (2) “Tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân”; (3) “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước”; “tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ hành chính công của những đối tượng khó khăn đặc thù”; “thúc đẩy việc xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng hướng tới cơ quan nhà nước “không giấy tờ””[17].

Tìm hiểu nội dung tín ngưỡng, tôn giáo qua các văn kiện của Đại hội Đảng lần này thấy rõ mục tiêu lớn nhất của Đảng ta đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo là “Xây dựng môi trường, văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; quan tâm đến mọi người dân; không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[18]. Trong báo cáo “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030”, Đảng ta khẳng định: “Mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”[19]. Đó cũng chính là tinh thần và biểu hiện cụ thể, sắc nét nhất của tinh thần “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”[20] của Đảng ta thể hiện xuyên suốt tại Đại hội và trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.

Thiều Hương, Vụ trưởng Vụ Tin lành, Ban Tôn giáo Chính phủ

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.64-65.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 -  2020 và phướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.45

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.72,73,86.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.212.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.87- 93.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-– 2025, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.94.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.57.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.50-51.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.141.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.144.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.171.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.272.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.281.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.248

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.328.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.330.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.147-148.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.330.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.216.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.248.