Một số yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên
Ngày đăng: 08/06/2021
Tây Nguyên là vùng trọng điểm về kinh tế, chính trị của cả nước và cũng là vùng có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống, hoạt động tôn giáo. Những năm qua, đời sống vật chất, tinh thần của người dân các tỉnh Tây Nguyên đã được cải thiện rõ rệt. Việc thay đổi này cũng bắt nguồn từ các chính sách hỗ trợ phát triển về kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước. Nơi đây có sự hiện diện của nhiều tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài,… Trong công cuộc xây dựng đất nước, nhận thức rõ được quyền và nghĩa vụ của mình, đa số quần chúng tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo đang hoạt động ở khu vực này đều hoạt động tuân thủ pháp luật, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Bên cạnh đó, thời gian qua việc thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên còn gặp phải không ít khó khăn, tồn tại do tác động của nhiều yếu tố. Bài viết này xin tập trung làm rõ các yếu tố chủ yếu tác động đến việc thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên.

1. Thực hiện pháp luật về tôn giáo

Thực hiện pháp luật về tôn giáo được hiểu trên cơ sở khái niệm về thực hiện pháp luật mà lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra. Thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về tôn giáo nói riêng là bước tiếp nối, liền sau quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, hiện thực hóa các quy định của pháp luật trong đời sống. Bất cứ nhà nước nào muốn quản lý xã hội đều phải tiến hành xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi nếu chỉ có xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhưng pháp luật đó không được tổ chức thực hiện, áp dụng trong thực tiễn một cách nghiêm túc, khoa học thì các quy định của pháp luật dù có được xây dựng, hoàn thiện bao nhiêu cũng trở nên vô nghĩa và ngược lại các văn bản pháp luật đó có được tổ chức thực hiện khoa học, bài bản, nghiêm túc nhưng các văn bản pháp luật được xây dựng không đảm bảo chất lượng thì các văn bản đó không chỉ cản trở các quyền, nghĩa vụ, các hoạt động trên thực tế mà còn trở nên tồi tệ, hủy hoại thực tiễn. Mặt khác, khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng pháp luật là tiến hành xây dựng các hệ thống quy tắc xử sự chung, tạo ra các khuôn mẫu để mọi cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện, còn thực hiện pháp luật là quá trình áp dụng các khuôn mẫu, quy tắc đó vào từng hoạt động diễn ra trong đời sống xã hội. Thông qua quá trình thực hiện pháp luật có thể kiểm tra tính thực tiễn, đánh giá tính phù hợp, đúng đắn, hiệu quả của các quy phạm pháp luật cũng như những tồn tại, hạn chế, không phù hợp của pháp luật để có thể khắc phục bằng cách loại bỏ, bổ sung, thay thế hoặc sửa đổi.

Cũng như các lĩnh vực khác, đối với lĩnh vực tôn giáo, để quản lý các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành các văn bản pháp luật. Việc ban hành các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; là căn cứ để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo có cơ sở để thực hiện; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người, đồng thời cũng tăng cường trách nhiệm của chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Thực hiện pháp luật về tôn giáo là hoạt động có mục đích, làm cho các quy định của pháp luật về tôn giáo được trở thành hiện thực trong thực tiễn, biến các quy tắc xử sự chung trên giấy tờ, từ lý luận trở thành hiện thực sống động, hợp pháp, hữu ích nhằm đảm bảo ngày càng cao hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền cơ bản của con người trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó phát huy sự nỗ lực, sức sáng tạo của mọi người trong đó có đồng bào tín đồ các tôn giáo để đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp.

Mặc dù vậy, để thực hiện pháp luật đạt được mục đích như mong muốn, bên cạnh hệ thống pháp luật về tôn giáo hoàn chỉnh còn đòi hỏi các chủ thể pháp luật cần nghiêm túc, tự giác thực hiện các quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết, để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật thì một số biện pháp chế tài xử phạt, cưỡng chế sẽ được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.

Thực hiện pháp luật về tôn giáo có thể hiểu đó là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm làm cho các quy định của pháp luật về tôn giáo đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp, bảo đảm quyền tự do tôn giáo; nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật về tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

2. Một số yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên

2.1. Yếu tố pháp luật

Tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp luật của xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định chính là yếu tố pháp luật. Yếu tố pháp luật bao gồm hệ thống pháp luật, các quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật, …

Yếu tố bảo đảm về mặt pháp luật, theo cách hiểu chung nhất thì “bảo đảm là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [4]. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện với ý nghĩa này cần phải có công cụ, phương tiện, phương pháp, cách thức nhất định và tùy thuộc vào mục đích, nội dung của việc cần đảm bảo đó là gì. Bảo đảm bằng pháp luật là một trong những loại bảo đảm xã hội, có vai trò duy trì xã hội ổn định, giữ vững chế độ chính trị, xã hội, thực hiện được nền dân chủ rộng rãi, công bằng, minh bạch, nền kinh tế phát triển. Bảo đảm bằng pháp luật có nghĩa là mọi hoạt động trong xã hội của tất cả các tổ chức, cá nhân đều được đảm bảo thực hiện công bằng theo pháp luật, không có ưu ái cũng như vùng cấm đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.

Ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về tôn giáo có nhiều yếu tố trong đó ảnh hưởng lớn, trực tiếp chính là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật và các quy phạm pháp luật này có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định [5]. Như vậy, hệ thống pháp luật bao gồm hệ thống các ngành luật và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm các quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau nhưng do tính chất, đặc điểm đặc thù đều hợp thành một hệ thống. Xét theo chiều ngang, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp và phản ánh nội dung của hệ thống các ngành luật. Văn bản quy phạm pháp luật dù được ban hành vào thời điểm nào, dưới hình thức gì thì đều phải căn cứ vào đối tượng, phạm vi điều chỉnh và nội dung đó hợp thành các chế định hay ngành luật cụ thể.

Xét theo chiều dọc, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có tính thứ bậc, giá trị pháp lý không giống nhau, điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau nhưng lại đều thống nhất với nhau. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về tôn giáo nói riêng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thực hiện pháp luật về tôn giáo. Có nhiều tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật như tính đồng bộ, tính phù hợp, tính toàn diện, tính kịp thời, ổn định hay liên quan đến trình độ kỹ thuật pháp lý của đội ngũ những chuyên gia, nhà quản lý, … tham gia xây dựng pháp luật. Các tiêu chí trên ở mức độ nhất định đều có tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến công tác thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua và hiện nay.

Bảo đảm pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên là một loại bảo đảm có quan hệ mật thiết với nhiều bảo đảm có liên quan đến tôn giáo ở các lĩnh vực khác, được thực hiện bởi hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có hoạt động lập pháp, thi hành và bảo vệ pháp luật lĩnh vực tôn giáo. Hay có thể nói, bảo đảm pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên được hiện hữu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, vấn đề cơ cấu tổ chức của các tổ chức tôn giáo, … cũng như các nghĩa vụ có liên quan và việc thực hiện, thi hành trên thực tế các quy định này.

2.2. Yếu tố tổ chức

 Bộ máy nhà nước có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật về tôn giáo. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong tổ chức thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên phải được cơ cấu tổ chức, sắp xếp một cách khoa học, có sự phân công, phân cấp rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn... để có đủ khả năng xử lý các nội dung công việc mà không chồng chéo, trùng lắp. Sự thiếu thống nhất, đồng bộ, phối hợp không nhịp nhàng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước sẽ dẫn đến sự đùn đẩy, né trách trách nhiệm trong việc xử lý, giải quyết gây ra hậu quả trong quản lý. Ở bất cứ quốc gia nào muốn đạt hiệu quả trong quản lý ở các lĩnh vực cũng cần có một bộ máy tổ chức quản lý đảm bảo được quyền lực nhà nước và năng lực tổ chức thực tiễn. Tổ chức cơ cấu bộ máy và trình độ cán bộ quản lý đảm bảo khả năng chỉ đạo, điều hành được các đối tượng quản lý thực hiện đúng, đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tiễn sẽ là minh chứng cho năng lực thực tiễn của bộ máy tổ chức.

 Cũng như ở các lĩnh vực khác, đối với lĩnh vực tôn giáo cũng đặt ra vấn đề cần phải kịp thời có giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo, bảo đảm tính ổn định tương đối và sự nhất quán trong điều hành, mặt khác phải linh hoạt để thích nghi với đời sống thực tiễn của các tổ chức tôn giáo. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo phải có đủ năng lực điều hành tương xứng với khối lượng công việc và số lượng đối tượng quản lý. Cán bộ, công chức quản lý hoặc tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo cần có năng lực phù hợp với vị trí, chức danh, nhiệm vụ được giao. Hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo phụ thuộc vào phương thức lãnh đạo, chỉ đạo và sự phân cấp rành mạch giữa Bộ Nội vụ với các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các cấp; giữa Sở Nội vụ và các sở, ngành của tỉnh; giữa Phòng Nội vụ và các phòng, ban của huyện. Hiện nay, bộ máy tham mưu làm công tác tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng (từ cấp huyện đến cấp tỉnh), trên phạm vi cả nước nói chung đang phải thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tôn giáo với nhiều nội dung công việc. Theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo thì hiện nay cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương phải đảm nhận 43 nội dung công việc; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Nội vụ phải đảm nhiệm 35 nội dung công việc; Ủy ban nhân dân cấp huyện phải đảm nhận 08 nội dung công việc và Ủy ban nhân dân cấp xã phải đảm nhận 10 nội dung công việc. Tổng số các nội dung công việc nêu trên là 96 nhiều hơn quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn cho Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo trước đây là 44 nội dung công việc (theo Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn cho Pháp lệnh là 52 nội dung công việc).

Bên cạnh tổ chức bộ máy tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo còn có yếu tố con người tức là cán bộ, công chức làm công tác tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo. Cán bộ, công chức khi thực hiện công vụ đều có mong muốn thỏa mãn các nhu cầu từ vật chất đến tinh thần như cơ hội thăng tiến, thu nhập cao và ổn định, làm công việc phù hợp với khả năng, trình độ chuyên môn được đào tạo, … hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức ngày càng đòi hỏi tính chuyên nghiệp để đạt được hiệu quả. Có nhiều yêu cầu đặt ra đối với người thực thi công vụ, trong đó yêu cầu có tính bao trùm là tính trách nhiệm, yêu nghề. Quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam thời gian qua ở tất cả các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đem lại một nền công vụ, nền hành chính minh bạch, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả và vì lợi ích của người dân rất đáng ghi nhận. Cán bộ, công chức vừa chuyên, vừa hồng sẽ đem lại những kết quả cao trong tham mưu quản lý và ngược lại nếu cán bộ, công chức không đủ năng lực, tư cách, đạo đức, tính chuyên nghiệp, trách nhiệm sẽ làm cho nền hành chính hoạt động không hiệu quả, niềm tin của người dân bị sa sút. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật về tôn giáo cũng không nằm ngoài ngoại lệ này.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức như nêu trên có thể thấy các yếu tố tác động đến hành vi của cán bộ, công chức đóng vai trò rất lớn trong việc tích cực hay không tích cực thực thi nhiệm vụ. Các yếu tố đó như mục đích, mục tiêu, động cơ của mỗi cá nhân; khả năng, kinh nghiệm hay mức sống, nguồn thu nhập, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình tác động rất lớn đến hành vi của cán bộ, công chức.

Ở các tỉnh Tây Nguyên, việc sáp nhập Ban Tôn giáo cấp tỉnh, Phòng Tôn giáo cấp huyện vào Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ đã tác động không nhỏ đến tâm tư, nguyện vọng của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo. Nhiều cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo lâu năm, có kinh nghiệm đã chuyển công tác hoặc xin nghỉ trước tuổi đã tác động đến hiệu quả tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo; đến thực hiện pháp luật về tôn giáo.

2.3. Đặc điểm dân cư, trình độ dân trí

Tây Nguyên là vùng đất có nhiều đặc trưng, sắc thái của rất nhiều tộc người sinh sống. Nơi đây do ảnh hưởng của việc di dịch cư tự do qua nhiều thời kỳ nên cũng là vùng đất hội tụ người của nhiều địa phương đến làm ăn, sinh sống, lập nghiệp. Tây Nguyên có 54 dân tộc, khoảng 5,3 triệu người, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 36,85%, số đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm 25,52% [3]. Bên cạnh tín ngưỡng đa thần, các tỉnh Tây Nguyên có tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tổ chức tôn giáo chính, đó là Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một số hệ phái Tin lành và một số Hội thánh Cao đài. Ngoài ra còn có tín đồ, chức sắc, chức việc của một số tổ chức tôn giáo khác cũng hoạt động ở đây. Năm 2009, trong tổng số hơn 5,1 triệu người ở Tây Nguyên có hơn 570 ngàn người theo đạo Phật (8%), hơn 800 ngàn người theo Công giáo (16,1%), hơn 362 ngàn người theo Tin lành (7,9%), hơn 20 ngàn người theo Cao đài (0,003%), hơn 1 ngàn người theo các tôn giáo khác (0,0002%) và hơn 3 ngàn người không theo tôn giáo nào (59,5%) [6].

Sau ngày miền Nam giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân ở khu vực Tây Nguyên, đồng thời thực hiện chủ trương chuyển một bộ phận dân cư ở các vùng có đông dân ở các tỉnh đến sinh sống ở Tây Nguyên (vùng kinh tế mới). Là vùng đất trù phú, có ưu thế về khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, Tây Nguyên đã nhanh chóng trở thành địa chỉ hấp dẫn, thu hút người dân về làm ăn, sinh sống. Sự gia tăng dân số của khu vực Tây Nguyên bằng cả con đường cơ học và di dịch cư tự do đã dẫn đến phát sinh nhiều vấn đề về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Yếu tố dân cư đa dạng này đã tác động không nhỏ tới việc thực hiện pháp luật về tôn giáo nơi đây.

Dân số ở các tỉnh Tây Nguyên đa dạng với nhiều tộc người, có trình độ dân trí khác nhau nhưng nhìn chung trình độ dân trí không cao là lực cản, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật về tôn giáo nói riêng. Ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới, vùng dân tộc thiểu số trình độ học vấn của đồng bào còn rất thấp. Một bộ phận cư dân đã đạt được trình độ sản xuất tiên tiến, nhưng vẫn còn một bộ phận cư dân khác vẫn còn canh tác thô sơ, manh mún. Vì vậy, nếu không nâng cao trình độ dân trí, người dân không được tiếp cận với tri thức, nếp sống văn minh, với văn hóa dân tộc, … thì không thể làm thay đổi được nhận thức, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Do trình độ học vấn thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề bởi luật tục sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả việc thực hiện pháp luật về tôn giáo ở Tây Nguyên.

2.4. Yếu tố kinh tế

Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp luật về tôn giáo. Yếu tố kinh tế được hiểu bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống các chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng trong thực tế. Nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững, năng động sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, ý thức thực hiện pháp luật của người dân. Ngược lại, nền kinh tế - xã hội không phát triển, kém năng động sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể liên quan. Nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết và thực hiện pháp luật chính là yếu tố kinh tế vì vậy sẽ có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể. Thực hiện pháp luật về tôn giáo nói chung, ở khu vực Tây Nguyên nói riêng không nằm ngoài quy luật này. Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên, thông qua việc tác động đến thái độ, nhận thức của các chủ thể thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện pháp luật về tôn giáo từ đó tác động đến chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật về tôn giáo.

Kinh tế ở khu vực Tây Nguyên phát triển, nguồn thu cho ngân sách nhà nước ngày càng tăng sẽ đem lại cho đời sống người dân no đủ về vật chất. Từ sự đầy đủ về vật chất đó sẽ phần nào giúp người dân thỏa mãn nhu cầu về tinh thần qua việc được thực hiện quyền tự do tôn giáo (có điều kiện để tham gia các lễ hội tôn giáo; thực hiện lễ nghi tôn giáo; …). Đây cũng sẽ là động lực thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về tôn giáo ngày càng chất lượng và hiệu quả hơn. Nguồn lực kinh tế đủ mạnh, Nhà nước và chính quyền các tỉnh ở Tây Nguyên sẽ có điều kiện hơn để đầu tư cho các chương trình phát triển dân sinh, các trung tâm văn hóa, chính trị phục vụ cho đời sống tinh thần của người dân ngày càng chất lượng. Người dân sẽ có cơ hội tiếp cận với các giá trị văn minh, văn hóa, pháp luật, … từ cách tiếp cận này họ sẽ hiểu biết, có tri thức từ đó sống và làm việc theo pháp luật, tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Ngược lại, nếu điều kiện kinh tế ở các tỉnh Tây Nguyên không phát triển, nguồn chi ngân sách cho các hoạt động liên quan đến văn hóa, tuyên truyền, phổ biến pháp luật eo hẹp thì hoạt động thực hiện pháp luật về tôn giáo ở khu vực này khó có thể đạt được kết quả như mong muốn.

Thực tiễn kinh tế ở các tỉnh Tây Nguyên thời gian qua có thể thấy thu nhập bình quân của 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất so với 20% số hộ có mức thu thấp cách nhau 13 lần, trong khi mức chênh lệch của cả nước là 8,9 lần và của Tây Bắc là 1,7 lần [2]. Những người có mức thu nhập thấp lại rơi vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 45% và tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 7,51%  [2].

Với những khó khăn như nêu trên về điều kiện kinh tế đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, công chức, đảng viên và người dân các tỉnh Tây Nguyên; tác động đến chất lượng cuộc sống của đồng bào các dân tộc và ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện pháp luật về tôn giáo.

2.5. Yếu tố văn hóa – xã hội của các tỉnh khu vực Tây Nguyên

Yếu tố văn hóa – xã hội là một trong những yếu tố có tác động lớn đến việc thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên. Yếu tố văn hóa – xã hội gắn liền với một không gian – xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng người sinh sống, lao động, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống phong tục tập quán, lễ nghi, … với những khía cạnh, những biểu hiện của mình, các yếu tố văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật về tôn giáo.

Khu vực Tây Nguyên là vùng đất có đặc thù về văn hóa của nhiều dân tộc. Văn hóa Tây Nguyên vừa đa dạng, phong phú, kết hợp hài hòa giữa văn hóa tộc người tạo nên một bản sắc độc đáo, đặc trưng về văn hóa. Yếu tố văn hóa có ảnh hưởng quan trọng đến việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, góp phần tạo dựng phẩm chất hài hòa, bao dung, sự đoàn kết gắn bó, bền chặt. Tuy nhiên, do tác động của đô thị hóa và sự tàn phá, hủy hoại của con người, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp ở đây ngày càng bị mai một. Nhiều hủ tục lạc hậu có cơ hội trỗi dậy làm lệch chuẩn văn hóa truyền thống, đạo đức xã hội. Sự mất dần của những giá trị truyền thống là một trong những nguyên nhân góp phần tạo điều kiện cho sự xâm nhập của hiện tượng tôn giáo mới, … Ngoài việc sử dụng vật chất để lôi kéo, mua chuộc, một số phần tử đội lốt tôn giáo còn xúi giục người dân bỏ lễ hội truyền thống, bỏ cồng chiêng, không uống rượu cần và múa hát cộng đồng, … Những hủ tục lạc hậu đã tạo ra nhiều khó khăn trong việc tuyên truyền, thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên.

Bên cạnh đó các vấn đề xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thực hiện pháp luật về tôn giáo. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong xã hội, hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong xã hội và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình trong việc thực hiện pháp luật, … ở chừng mực nhất định, các thông tin này đã tác động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân, làm cho họ hiểu  và biết thực hiện pháp luật về tôn giáo ngày càng nhiều hơn.

Dư luận xã hội tác động cũng rất mạnh mẽ tới thực hiện pháp luật về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên. Dư luận xã hội gắn với sự định hướng, ý chí của cộng đồng nên tác động mạnh mẽ đến hành vi của con người. Thực tiễn xã hội đã minh chứng một vài cá nhân nào đó có thể trong chừng mực nhất định không sợ sự trừng phạt của pháp luật nhưng lại sợ sự phê phán, lên án của dư luận xã hội, của cộng đồng tôn giáo. Trong xã hội có nền dân chủ càng rộng rãi, dư luận xã hội được coi là phương tiện để kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp luật và hành vi pháp luật của mọi người. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi nhận “chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội[1]. Ở các tỉnh Tây Nguyên, với điều kiện kinh tế, xã hội, dân cư, địa lý, … lối sống của người dân Tây Nguyên cũng mang tính cộng đồng, làng bản cao và chặt chẽ, sự liên kết giữa các thành viên không chỉ bằng mối quan hệ thông qua các tổ chức, đoàn thể mà còn qua các phong tục, hủ tục của các dân tộc. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội hữu hựu nhất, tuy nhiên ở các tỉnh Tây Nguyên còn có các hương ước, quy ước, luật tục khác.

Từ các nội dung trên cho thấy có rất nhiều yếu tố có thể tác động, ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Việc nghiên cứu, làm rõ những yếu tố này sẽ giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đánh giá một cách khách quan, toàn diện. Trên cơ sở đó có các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tôn giáo, đảm bảo quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người như tinh thần Hiến pháp năm 2013 đã quy định./.

 

TS. Nguyễn Thị Định

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), Từ Bộ Quốc gia giáo dục đến Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.25.

2. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2012), Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột, tr.5.

3. Ban Chỉ đạo Tây Bắc (2013), Công giáo ở các tỉnh Tây Bắc gắn bó đồng hành cùng dân tộc – khó khăn, thuận lợi. Kiến nghị về chủ trương, giải pháp, Tây Bắc.

4. Học viện Quản lý giáo dục (2006), Kỷ yếu về quản lý trường Đại học, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, Tr. 175.

5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 401.

6. GS.TS. Võ Khánh Vinh, Báo cáo tổng hợp đề tài Hệ thống chính trị ở cơ sở phục vụ phát triển bền vững Tây Nguyên (2015), Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, Chương trình Tây Nguyên 3.