Quy định của pháp luật về giáo dục hiện nay liên quan đến tổ chức tôn giáo
Ngày đăng: 29/10/2021
Ở Việt Nam, năm 2020 có 41 tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo thuộc 16 tôn giáo, với khoảng 53.390 chức sắc, 93.581 chức việc (tổng số chức việc của 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương); 39.555 người vừa là chức sắc, vừa là chức việc và 26.548.509 tín đồ .

Bên cạnh các hoạt động tôn giáo, các tổ chức tôn giáo ngày càng đóng vai trò quan trọng ở nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội và trở thành “nguồn lực” rất lớn đối với xã hội. Để giúp cho độc giả hiểu hơn về quy định của pháp luật ở các lĩnh vực có liên quan mà các tổ chức tôn giáo có thể tham gia thực hiện, bài viết này xin được tập trung làm rõ một số quy định của pháp luật về giáo dục liên quan đến các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

I. Chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đối với việc tổ chức tôn giáo thực hiện các hoạt động giáo dục

 Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo xác định “Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, giáo dục… của Nhà nước, theo nguyên tắc khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia phù hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và quy định của pháp luật; Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia với tư cách công dân thì được khuyến khích và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật”.

Thực hiện chủ trương này, Điều 33 của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đã quy địnhNhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khoẻ người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; hỗ trợ phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động khác vì mục đích từ thiện nhân đạo phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật. Chức sắc, nhà tu hành với tư cách công dân được Nhà nước khuyến khích tổ chức hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật”. Qua quá trình thực hiện các quy định của Pháp lệnh cho thấy, sự tham gia vào hoạt động giáo dục nói chung; các hoạt động về y tế, từ thiện nhân đạo nói riêng của các tổ chức tôn giáo có tiềm năng rất lớn và có nhiều đóng góp cho xã hội.

Nhận thức được vai trò quan trọng này, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, đã khẳng định mạnh mẽ, không dừng lại ở mức độ “khuyến khích” như Pháp lệnh mà Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định tổ chức tôn giáo được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan[1]. Như vậy, Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã ghi nhận quyền được tham gia vào các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo. Để thực hiện các hoạt động giáo dục, tổ chức tôn giáo phải áp dụng các quy định của pháp luật chuyên ngành ở lĩnh vực giáo dục đối với loại hình và từng hoạt động cụ thể. Quy định này là phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật tín ngưỡng, tôn giáo (Luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ điều chỉnh các vấn đề về tổ chức và hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, ghi nhận quyền của mọi người, của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung) và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của Luật tín ngưỡng, tôn giáo với hệ thống pháp luật về giáo dục hiện nay.

II. Quy định của pháp luật về giáo dục liên quan đến các tổ chức tôn giáo

1. Pháp luật về giáo dục hiện nay

Hiện nay các văn bản pháp luật về giáo dục gồm có:

- Luật giáo dục năm 2019;

- Luật giáo dục đại học năm 2012;

- Luật giáo dục đại học (sửa đổi) năm 2018;

- Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014;

- Các Nghị định quy định chi tiết Luật Giáo dục, Luật giáo dục đại học, Luật giáo dục nghề nghiệp; các Thông tư của Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Bộ trưởng Bộ lao động, thương binh và xã hội về các nội dung có liên quan.

2. Các quy định cụ thể có liên quan của pháp luật về giáo dục

a) Về chính sách xã hội hóa, ưu tiên đầu tư giáo dục

Luật giáo dục năm 2019 quy định cụ thể các chính sách của Nhà nước trong thực hiện xã hội hóa, ưu tiên đầu tư trong giáo dục, gồm:

Điều 16 - Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục

1. Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân.

2. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao.

3. Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.

4. Tổ chức, cá nhân có thành tích trong sự nghiệp giáo dục được khen thưởng theo quy định của pháp luật”.

Bên cạnh đó, Điều 17 quy định về  đầu tư cho giáo dục gồm:

1. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư thuộc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và được ưu đãi, hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật.

2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; ưu tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có khu công nghiệp.

Nhà nước khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục.

3. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục.

Trong Luật giáo dục đại học, các chính sách của Nhà nước về xã hội hóa, ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học quy định: Thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học, khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục đại học tư thục; ưu tiên cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; có chính sách ưu đãi đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào hoạt động giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tại cơ sở giáo dục đại học; có chính sách miễn, giảm thuế đối với tài sản hiến tặng, hỗ trợ cho giáo dục đại học, cấp học bổng và tham gia chương trình tín dụng sinh viên[2].

Trong Luật giáo dục nghề nghiệp quy định chính sách xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp đó là:

“1. Đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các hình thức đào tạo nghề nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức khác, công dân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tham gia hoạt động đào tạo nghề nghiệp.

2. Tổ chức, cá nhân đóng góp, đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục nghề nghiệp được hưởng chính sách khuyến khích xã hội hóa theo quy định của Chính phủ. Ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo nhà giáo và cán bộ quản lý, cho thuê cơ sở vật chất, thiết bị để khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục và cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận.

3. Khuyến khích nghệ nhân và người có tay nghề cao tham gia đào tạo nghề nghiệp; khuyến khích, hỗ trợ đào tạo các nghề truyền thống và ngành, nghề ở nông thôn.

4. Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp; giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.

5. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiệp hội doanh nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có trách nhiệm tham gia xây dựng, thẩm định chương trình đào tạo nghề nghiệp; tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện quyền và trách nhiệm trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp”[3].

Như vậy, có thể thấy, trong các văn bản pháp luật nêu trên, các chính sách của Nhà nước về xã hội hóa, ưu đãi đầu tư đối với giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp đều hướng tới thu hút sự tham gia rộng rãi, tích cực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội vào việc đóng góp, đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục, không có giới hạn loại hình tổ chức nào thì được tham gia, loại hình tổ chức nào không được tham gia. Từ đó cho thấy, kể cả tổ chức tôn giáo cũng được tham gia vào các hoạt động này.

Khi tham gia vào việc thành lập, tổ chức hoạt động giáo dục theo các Luật nêu trên, các tổ chức tôn giáo được bình đẳng trong hưởng các chính sách ưu tiên, khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ trong đầu tư và các chính sách xã hội hóa như các tổ chức khác.

b) Về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục

Tại các Luật nêu trên và Luật đầu tư xác định đầu tư vào giáo dục là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và tổ chức muốn đầu tư vào giáo dục phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về giáo dục, các Nghị định quy định về điều kiện đầu tư tương ứng với từng loại hình giáo dục. Tổ chức tôn giáo bình đẳng với các tổ chức khác, vì vậy khi có đủ điều kiện sẽ trở thành chủ đầu tư để thành lập, tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp. Trong các quy định này cũng không có bất kỳ quy định nào đặt ra điều kiện đầu tư, kinh doanh riêng biệt dành cho tổ chức tôn giáo.

c) Về tổ chức và hoạt động giáo dục trong cơ sở giáo dục

Các tổ chức tôn giáo khi tham gia hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục do mình thành lập phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về giáo dục tương ứng. Khi tham gia các hoạt động giáo dục, các tổ chức tôn giáo cũng bình đẳng với các cơ sở giáo dục ngoài công lập khác. Các cơ sở giáo dục này phải thực hiện đúng chương trình, nội dung giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục đào tạo, Bộ lao động thương binh và xã hội dành cho các cơ sở giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp ngoài công lập. Tổ chức và hoạt động theo quy chế của cơ sở giáo dục và tuân theo các quy định/điều lệ đối với từng loại hình giáo dục tương ứng do Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ lao động thương binh và xã hội hướng dẫn.

Đồng thời, để bảo đảm phù hợp với quy định về hành vi ngăn cấm trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo về việc ép buộc người khác theo tôn giáo., tại Điều 20 Luật giáo dục quy định “Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các lễ nghi tôn giáo trong cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân. Quy định này được áp dụng chung cho mọi cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, trong đó bao gồm cả các cơ sở giáo dục do tổ chức tôn giáo đầu tư thành lập.

Tại Luật giáo dục đại học quy định Cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài tự chủ, có trách nhiệm giải trình trong việc xây dựng chương trình đào tạo và thực hiện chương trình đào tạo đã được kiểm định bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam, bảo đảm không gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng, không có nội dung xuyên tạc lịch sử, ảnh hưởng xấu đến văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục và đoàn kết các dân tộc Việt Nam, hòa bình, an ninh thế giới; không có nội dung truyền bá tôn giáo[4].

Để bảo đảm hoạt động giáo dục đạt được mục tiêu đồng thời cũng phòng ngừa các hành vi vi phạm, Luật giáo dục quy định về các hành vi bị nghiêm cấm đó là cấm lợi dụng hoạt động giáo dục (1) để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, phá hoại thuần phong mỹ tục, truyền bá mê tín, hủ tục, lôi kéo người học vào các tệ nạn xã hội; (2) vì mục đích vụ lợi.

d) Về quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục, hoạt động giáo dục do tổ chức tôn giáo đầu tư, thành lập, tổ chức thực hiện

Tại các văn bản pháp luật về giáo dục quy định cụ thể về phân cấp thẩm quyền trong quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và được phân theo cấp học, loại hình trường công lập và ngoài công lập. Theo đó, các trường ngoài công lập do các tổ chức, cá nhân thành lập đều chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục theo phân cấp, không có sự phân biệt về chủ thể là chủ đầu tư thành lập cơ sở giáo dục. Vì vậy, các cơ sở giáo dục, hoạt động giáo dục do tổ chức tôn giáo thành lập chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quản lý nhà nước về giáo dục tương tự như các cơ sở giáo dục, hoạt động giáo dục do các tổ chức khác là chủ đầu tư, không có điểm khác biệt và cũng không chịu thêm sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo.

Như vậy, qua rà soát các quy định của pháp luật giáo dục hiện hành có liên quan trực tiếp tới hoạt động giáo dục của tổ chức tôn giáo cho thấy, pháp luật đã quy định theo hướng bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa tổ chức tôn giáo với các tổ chức khác khi đầu tư, thành lập, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Các quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo được tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục như các chủ thể khác trong xã hội, bảo đảm thu hút mạnh mẽ và ngày càng phát huy được nguồn lực từ các tổ chức tôn giáo. Khi tham gia vào các hoạt động này, tổ chức tôn giáo cần nghiên cứu kỹ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về giáo dục để xác định đúng các quy định phải áp dụng, phải thực hiện. Các tổ chức tôn giáo cũng cần có sự tách bạch giữa hoạt động tôn giáo với các hoạt động giáo dục mà tổ chức tôn giáo tham gia, không được coi hoạt động giáo dục là một hoạt động tôn giáo cũng như không được xác định các cơ sở giáo dục là các cơ sở tôn giáo trực thuộc hay một kênh để truyền bá tôn giáo. Các cơ sở giáo dục này mặc dù do các tổ chức tôn giáo đầu tư, thành lập và quản lý, tuy nhiên tổ chức và hoạt động của các cơ sở này phải tuân theo quy định của pháp luật về giáo dục; phải độc lập về tổ chức và hoạt động tôn giáo của tổ chức tôn giáo. Đất đai, cơ sở vật chất, tài chính, con người… của các cơ sở giáo dục phải được phân biệt rành mạch với tổ chức tôn giáo, phải bảo đảm sự độc lập, tách biệt với tổ chức tôn giáo để bảo đảm các cơ sở này có đủ điều kiện, nguồn lực theo quy định của pháp luật về đầu tư kinh doanh giáo dục, có tư cách pháp nhân, độc lập và chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động của mình theo quy định của pháp luật giáo dục. Tổ chức tôn giáo lúc này đóng vai trò là chủ sở hữu, nhà đầu tư và việc quản lý đối với cơ sở giáo dục do mình đầu tư, thành lập hay hoạt động theo các quy định của pháp luật về giáo dục, không phải là tổ chức cấp trên trực tiếp theo cơ cấu tổ chức được ghi trong Hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.

Trong trường hợp từ thực tiễn tham gia vào hoạt động giáo dục của các tổ chức tôn giáo có phát sinh vướng mắc, bất cập, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật hiện hành, chưa tương xứng, phù hợp với các đặc thù của tổ chức tôn giáo, thì cần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về giáo dục tương ứng. Các tổ chức tôn giáo với vai trò là chủ đầu tư, chủ sở hữu, chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục cần kiến nghị với các Bộ, ngành liên quan theo phân cấp để có hướng dẫn, xử lý các vấn đề phát sinh khi thực hiện đầu tư, thành lập, tổ chức hoạt động tại các cơ sở giáo dục. Các chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ, chính sách xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục được áp dụng chung cho mọi tổ chức là chủ đầu tư tham gia thành lập, do đó, các tổ chức tôn giáo cần nắm bắt đầy đủ để thực hiện, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng, đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật. Trường hợp cần thiết có thể kiến nghị tới cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo để các cơ quan này có sự hỗ trợ, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục tháo gỡ, giải quyết cho phù hợp, thỏa đáng./.

 

TS. Nguyễn Thị Định

 

*Chú thích:

  (1) Danh mục tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo ban hành kèm theo công văn 6955 ngày 28/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

(2) Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thi hành Luật và Nghị định số 162.

(3) Điều 55 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

(4) Điều 12 Luật Giáo dục đại học.

(5) Điều 7 Luật Giáo dục nghề nghiệp.

(6) Điểm d khoản 1 Điều 36 Luật Giáo dục đại học.

 

[1] Điều 55 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

[2] Điều 12 Luật Giáo dục đại học.

[3] Điều 7 Luật Giáo dục nghề nghiệp.

[4] Điểm d khoản 1 Điều 36 Luật Giáo dục đại học.