Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế và thực tiễn công tác “nội luật hóa” trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Ngày đăng: 10/08/2018Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời và là một quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay Việt Nam có 15 tôn giáo với 41 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với 25,3 triệu tín đồ chiếm khoảng 27% dân số cả nước, gần 60.799 chức sắc, nhà tu hành, 133.662 chức việc và trên 27.916 cơ sở thờ tự, gần 70% dân số có tín ngưỡng với trên 45 nghìn cơ sở tín ngưỡng.
Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà - Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản, tự nhiên, vốn có, của con người Nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện.
Bài viết này giới thiệu khái quát về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế và thực tiễn công tác “nội luật hóa” trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua.
I. QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
1. Khái quát lịch sử phát triển của các quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những vấn đề được thảo luận nhiều nhất trong lịch sử phát triển các quyền và tự do cơ bản của con người. Quan niệm về “tự do tôn giáo” được hình thành ở châu Âu gắn liền với các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locke đã đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính mình và cách tốt nhất là hãy để cá nhân mỗi người tự lựa chọn tôn giáo cho mình.
Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần trở nên hoàn thiện hơn. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đề cập đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp ngày 26-8-1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, song cũng chưa thực sự nói rõ về tự do tôn giáo: “Không ai phải lo lắng về những quan điểm của họ, bao gồm cả những quan điểm về tôn giáo, miễn là sự thể hiện chúng không làm ảnh hưởng tới trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ”[1]. Năm 1905, Luật Phân ly nổi tiếng của nước Pháp thật sự nói về tự do lương tâm và tự do thờ cúng. Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ngày 10-12-1948 thì tự do tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế.
2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong luật nhân quyền quốc tế
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong nhiều văn kiện của luật nhân quyền quốc tế. Cụ thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong một số văn bản chính trị - pháp lý của Liên hợp quốc bao gồm các văn bản mang tính chất tuyên ngôn như Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948; các văn bản mang tính chất pháp lý như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, trong đó, Hiến chương của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn nhân quyền là những văn bản không có tính ràng buộc pháp lý, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nguyên tắc và định hướng đạo lý, chính trị của quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Công ước là văn bản có tính ràng buộc pháp lý, bao gồm các nội dung cụ thể về quyền con người và các quốc gia chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với những văn kiện này.
- Hiến chương Liên Hợp Quốc, 1945
Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”[2]. Với mục đích nhằm tạo những điều kiện ổn định và tốt đẹp để duy trì những quan hệ hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc Liên Hợp Quốc khuyến khích“tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo”[3].
- Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR)
Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948 của Liên Hợp Quốc là văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, khẳng định“mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư”[4]. UDHR đã kế thừa và phát triển tư tưởng về “tự do tôn giáo” trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Điểm phát triển ở đây là UDHR quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể và chặt chẽ hơn.
Để thực hiện được các quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, UDHR đã xác định các điều kiện đảm bảo như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ quyền con người “mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền”[5]; “mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác”[6]. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy”[7].
Bên cạnh đó, UDHR cũng đề cập đến những giới hạn trong việc thực hiện quyền con người nói chung, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, mà bản chất của nó là cho phép các quốc gia thành viên có thể áp đặt một số điều kiện với việc thực hiện hoặc hưởng thụ một số quyền con người nhất định, theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, mà là quyền có thể bị giới hạn, cụ thể: “1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc”[8].
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR)
Quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo được quy định tại Khoản 1, Điều 18 với bốn nội dung cụ thể, theo đó: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ phụng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng”.
Ngoài ra, trong ICCPR, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được bổ sung thêm ba nội dung, làm cho quan niệm về quyền này rõ ràng và đầy đủ hơn, đó là:
- Khoản 2, Điều 18: “Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”;
- Khoản 3 Điều 18: Khác với bản thân quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo và tín ngưỡng là những quyền tuyệt đối, không thể giới hạn, theo ICCPR, việc biểu đạt, bày tỏ (manifest) tôn giáo và tín ngưỡng lại có thể bị giới hạn “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Trong khoản 3 Điều 18 nêu trên có đầy đủ các lý do thông thường mà các quốc gia có thể viện dẫn để giới hạn quyền, ngoại trừ an ninh quốc gia.
- Khoản 4, Điều 18 xác định quyền của các bậc cha mẹ được hướng dẫn về niềm tin, đức tin, tín ngưỡng cho con cái họ, khi quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ”. Như vậy, do đặc điểm hạn chế về khả năng nhận thức của trẻ em, ICCPR quy định cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ có toàn quyền trong việc bảo đảm giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái phù hợp với nguyện vọng của mình.
Bốn nội dung của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện tại Điều 18 của ICCPR gắn kết với nhau trong mối tương quan mật thiết, vừa nói lên được tính phổ quát của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa “để ngỏ” cho những quốc gia với những đặc thù riêng có thể thực hiện được. Vì vậy, tính khả thi trong hiện thực của nó rất cao.
- Bình luận chung số 22 của Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp quốc
Một số khía cạnh liên quan đến nội dung Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị sau đó đã được Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (The United Nations’ Human Rights Council - HRC) làm rõ thêm trong Bình luận chung số 22 thông qua tại phiên họp lần thứ 48 năm 1993 của Uỷ ban, mà có thể tóm tắt những quan điểm quan trọng sau:
1. Quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo không bị hạn chế hay bị tước bỏ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia (đoạn 1).
2. Các khái niệm “tín ngưỡng” (belief) và “tôn giáo” (religion) trong Điều 18 ICCPR cần được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả những lòng tin hữu thần và vô thần. Điều này không chỉ được áp dụng với các tôn giáo, tín ngưỡng có tính thể chế mà còn với những tập tục truyền thống mang tính tôn giáo (đoạn 2).
3. Quyền tự do thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng có thể được thực thi với tư cách cá nhân hay cùng với cộng đồng, ở nơi công cộng hay chỗ riêng tư; thể hiện ở các hành động như thờ cúng, tham gia những lễ hội tôn giáo, quan sát, thực hành và giảng dạy về tôn giáo. Khái niệm thờ cúng bao gồm những hoạt động lễ nghi, kỷ niệm, xây dựng những nơi thờ tự, sử dụng hay trưng bày các vật dụng và biểu tượng nghi lễ, tham gia các lễ hội và các ngày nghỉ lễ tôn giáo. Việc quan sát và thực hành tôn giáo không chỉ bao gồm các hoạt động nghi lễ mà còn bao gồm việc tuân thủ các nguyên tắc về ăn kiêng, trang phục, sử dụng ngôn ngữ đặc biệt, lựa chọn lãnh đạo tôn giáo, tăng lữ, người thầy tâm linh, thành lập các trường tôn giáo, biên soạn và phân phát các tài liệu tôn giáo (đoạn 4).
4. Quyền tin hoặc theo một tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hay tín ngưỡng để tin hoặc theo, kể cả việc thay đổi niềm tin từ tôn giáo, tín ngưỡng này sang tôn giáo, tín ngưỡng khác, hay thay đổi niềm tin từ vô thần sang hữu thần và từ hữu thần sang vô thần (đoạn 5).
5. Các trường công lập có thể giảng dạy những môn học như lịch sử đại cương của các tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là nội dung cần trung lập và khách quan. Việc các trường công lập giảng dạy giáo lý một tôn giáo hay nội dung một tín ngưỡng cụ thể nào đó là trái với quy định trong khoản 4 Điều 18, trừ phi việc giảng dạy như vậy là do ý nguyện và thuộc vào quyền quyết định của các bậc cha mẹ (đoạn 6).
6. Nghiêm cấm các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có mục đích hoặc tính chất tuyên truyền cho chiến tranh hoặc hận thù dân tộc, tôn giáo hay kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch hoặc bạo lực. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ sử dụng pháp luật để ngăn chặn hành động đó (đoạn 7).
7. Khoản 3 Điều 18 cho phép hạn chế quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sự bình yên hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Tuy nhiên, quyền không bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng và quyền của các bậc cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp được giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ thì không được hạn chế trong mọi trường hợp (đoạn 8).
8. Việc một tôn giáo được xác định là quốc giáo, là tôn giáo chính thức hay truyền thống, hoặc có số lượng tín đồ chiếm đa số trong xã hội không được sử dụng để làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền tự do quy định ở các Điều 18 và Điều 27 của ICCPR, cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ củ các tôn giáo khác, hoặc với những người không theo tôn giáo nào. Những hình thức phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác, hay với những người không theo tôn giáo trong bối cảnh này, ví dụ như việc quy định chỉ những tín đồ thuộc tôn giáo chiếm ưu thế mới được tham gia chính quyền hay dành những ưu đãi về kinh tế cho họ, đều trái với các quy định về quyền bình đẳng nêu ở Điều 26 ICCPR (đoạn 9).
9. ICCPR không quy định quyền được từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm (mặc dù một số quốc gia đã ghi nhận quyền này bằng cách cho phép thực hiện nghĩa vụ khác thay thế). Tuy nhiên, nếu quyền này được ghi nhận trong pháp luật hay trong thực tế thì không được áp dụng theo cách thức phân biệt đối xử giữa các nhóm tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau (đoạn 11).
Xét tổng quát, luật nhân quyền quốc tế đề cập đến những vấn đề nổi bật sau đây về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
Một là, tuyên bố sự tồn tại của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
Hai là, mọi người được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách công khai một mình hay trong cộng đồng;
Ba là, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tuy nhiên, luật nhân quyền quốc tế cũng khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là một quyền tuyệt đối, mà các quốc gia có thể đặt ra những giới hạn nhất định hạn chế việc thực hiện quyền này nếu thấy đó là cần thiết nhằm mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Khi đặt ra những hạn chế về quyền này trong pháp luật, các quốc gia thành viên phải tuân thủ những nguyên tắc có liên quan nêu ở Điều 5 của ICCPR, theo đó các hạn chế đưa ra phải không làm tổn hại đến bản chất của các quyền; phải có sự tương thích giữa sự hạn chế ấy với việc bảo đảm các quyền có liên quan, giữa quy phạm và loại trừ; những hạn chế ấy phải tương xứng với lợi ích được bảo vệ.
Những hạn chế của việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định trong luật nhân quyền quốc tế đã được các quốc gia thành viên tuân thủ áp dụng trong pháp luật quốc gia một cách triệt để. Theo đó, các loại hình tổ chức tôn giáo hoặc hoạt động tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, vi phạm đạo đức xã hội hoặc vi phạm các quyền và tự do của người khác,… đều không được phép hoạt động.
II. THỰC TIỄN CÔNG TÁC “NỘI LUẬT HÓA” TRONG QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1. Kết quả “nội luật hóa” điều ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam
Nội luật hóa là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc tế thành quy phạm của pháp luật quốc gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật[9]. Việc chuyển hóa điều ước quốc tế về quyền con người vào pháp luật quốc gia là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với mỗi quốc gia thành viên công ước. “Mỗi quốc gia thành viên của công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình các quyền đã được công nhận trong công ước này, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc mọi quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội”[10].
Với tư cách là một quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, Việt Nam cam kết tôn trọng và bảo đảm cho người dân thực hiện có hiệu quả các quyền con người được công ước ghi nhận bằng hoạt động lập pháp. Nội dung quyền con người ngày càng được quy định đầy đủ hơn, cơ chế bảo vệ quyền con người không ngừng được hoàn thiện, bảo đảm sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Một trong những thuận lợi cho công tác "nội luật hoá" các điều ước quốc tế về quyền con người là ở chỗ, bản thân pháp luật Việt Nam mà tiêu biểu là qua các bản Hiến pháp đã được ban hành với nội dung về cơ bản đã phù hợp và ghi nhận hầu hết các quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn Toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 và trong hai Công ước quốc tế quan trọng nhất về nhân quyền.
Kể từ khi gia nhập ICCPR, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể để bảo đảm và phát huy các quyền dân sự và chính trị được quy định trong ICCPR, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện rõ nét ở việc “nội luật hóa” các quy định của công ước này trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, cụ thể như sau:
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Xuyên suốt cả năm Hiến pháp của nước ta, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người luôn luôn được đề cao cho thấy Nhà nước Việt nam đã quyết tâm cao độ để đưa các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Nhà nước Việt Nam đã ký kết vào văn kiện luật pháp tối cao của đất nước. Trong quá trình xây dựng Hiến pháp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được thể hiện rõ nét, đầy đủ, ngày càng được hoàn thiện cả về bề rộng và bề sâu, được bảo đảm bằng các cơ chế, biện pháp thực hiện hiệu quả hơn. Có thể nhận thấy rằng, ở mỗi Hiến pháp sau quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người không phải là sự sao chép lại các quy định của các Hiến pháp trước, mà là sự kế thừa và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh của đất nước, nội hàm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng mở rộng hơn và cũng cụ thể hơn.
Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã có sửa đổi quan trọng về chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là quyền của tất cả “mọi người” và quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi. Đồng thời ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người quan trọng, cơ bản, được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Điều 24, Hiến pháp 2013 khẳng định: "1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".
Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bổ sung các thiết chế độc lập nhằm tăng cường cơ chế thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc giới hạn của các quyền con người cũng đã được quy định thành nguyên tắc trong Hiến pháp. Theo khoản 2 Điều 14, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Ngoài Hiến pháp, trong từng thời kỳ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác. Hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo không ngừng được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện, phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo không những tăng về số lượng mà còn phong phú, đa dạng hơn về hình thức. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật luôn được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn, cụ thể: Ngay từ ngày mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234-SL ngày 14/6/1955 ghi rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện” (Điều 15). Một số thông tư hướng dẫn thi hành Sắc lệnh này sau đó đã được ban hành, bao gồm: Thông tư số 593-TTg (năm 1957) và Thông tư số 60-TTg (11/6/1964) quy định chi tiết về việc thi hành chính sách tôn giáo,… Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11/11/1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về “Một số chính sách đối với tôn giáo” trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và bảo vệ quyền này tiếp tục được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật, bao gồm: Nghị định số 69-HĐBT ngày 21/3/1991 ban hành “Quy định về các hoạt động tôn giáo”; Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày19/4/1999 quy định về các hoạt động tôn giáo; Tiếp đến là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2014; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành; Chỉ thị số 1940/CT-TTg, ngày 31/12/ 2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo. Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo,... Bên cạnh các quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hoá trong nhiều bộ luật, luật quan trọng khác của Nhà nước Việt Nam như: Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật giáo dục, Luật đất đai, Luật cư trú, Luật Hôn nhân gia đình,…
Kết quả “nội luật hóa” điều ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian qua là phù hợp với nội dung quy định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc.
2. Luật tín ngưỡng, tôn giáo - “nội luật hóa” sâu sắc các quy định của công ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 18/11/2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 (sau đây gọi tắt là Luật). Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất hiện nay điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời là một trong những Luật đầu tiên được ban hành cụ thể hóa quyền con người theo Hiến pháp năm 2013, “nội luật hóa” sâu sắc các nguyên tắc cơ bản trong việc thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Công ước về các quyền dân sự, chính trị của Liên Hợp quốc mà Việt Nam đã gia nhập năm 1982.
Phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, Luật đã có những điểm mới căn bản về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó điểm mới quan trọng đó là mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ “công dân” thành “mọi người”, thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt, Luật đã dành một chương (Chương II) để quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, để phản ánh rõ hơn phạm vi điều chỉnh của Luật cũng như thể hiện một cách cơ bản nhất chính sách của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Bên cạnh việc khẳng định“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo”[11], Luật còn quy định “mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo”[12]. Việc thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo của các chức sắc, chức việc, nhà tu hành được tiến hành tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác (bên ngoài cơ sở tôn giáo). Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta quy định “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”[13]. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước bảo đảm thực hiện và bảo vệ ngay cả đối với người phạm tội đang phải chấp hành hình phạt theo bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là sự thể hiện đầy đủ nhất về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, trước hết là quyền con người, là sự tự nhiên, vốn có và phải được đảm bảo ngay cả khi con người bị tước quyền công dân.
Bên cạnh đó, Luật còn có quy định về quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Theo đó, tổ chức tôn giáo được quyền hoạt động, tổ chức sinh hoạt tôn giáo theo hiến chương, điều lệ; được xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm, đồ dùng tôn giáo; cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo cũng như được nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tự nguyện tặng cho[14]. Như vậy, các điều kiện thiết yếu để duy trì, phát triển các hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo đã được đảm bảo về mặt pháp lý một cách toàn diện, đầy đủ.
Đối với người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng đã dành một điều riêng để quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, khẳng định “Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”[15]. Về nguyên tắc, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và có những quyền về tín ngưỡng, tôn giáo như công dân Việt Nam. Cụ thể “người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền: sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam”[16]; Đối với “chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam”[17].
Với những quy định đầy đủ, tiến bộ của Luật tín ngưỡng, tôn giáo về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người, chắc chắn rằng những hoạt động tín ngưỡng sẽ được bảo tồn và phát huy, các hoạt động tôn giáo sẽ được duy trì, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, tiếp tục góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những thành tựu về lập pháp mà Việt Nam đã đạt được trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới chính là bảo đảm cao nhất về pháp lý để mọi người có cơ hội và điều kiện ngày càng bình đẳng trong việc thực hiện và hưởng thụ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều đó cũng cho thấy cố gắng của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người trong việc “nội luật hóa”. Kết quả công tác “nội luật hoá” điều ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao những nỗ lực trên nhiều mặt cũng như thành tựu của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền con người, trong đó có bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế.
Một môi trường tốt cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là nhiệm vụ lâu dài và cần thiết để quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực sự được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Chúng ta tin tưởng rằng, từ quan điểm, chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi người đã, đang và sẽ được hưởng quyền này ngày càng đầy đủ hơn, từ đó có những đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của xã hội./.
ThS.Nguyễn Thị Diệu Thúy
Viện Nghiên cứu chính sách tôn giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tư pháp, Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 quan điểm mới cách tiếp cận mới và các quy định mới, Nxb Chính trị Quốc gia, 2014.
2. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, 2016.
3. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền 1948 Mục tiêu chung của nhân loại, Nxb Lao động - Xã hội, 2011.
4. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính tri ̣(ICCPR,1966), Nxb Hồng Đức, 2012.
5. Học viện Khoa học Xã hội, Pháp luật Quốc tế về quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, 2014.
6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2001), Hiến pháp, Nxb Lao đôṇg.
7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm 2013.
8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, http://moj.gov.vn, 2013.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
10. Văn phòng Thường trực về nhân quyền và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Hà Nội 2015.
[1] Điều 10, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, 1789.
[2] Khoản 3, Điều 1 Hiến chương Liên Hợp Quốc.
[3] Khoản 3, Điều 55 Hiến chương Liên Hợp Quốc.
[4] Điều 18, UDHR.
[5] Điều 1, UDHR.
[6] Điều 2, UDHR.
[7] Điều 7, UDHR.
[8] Điều 29, UDHR.
[9] Một số vấn đề liên quan đến việc nội luật hóa điều ước quốc tế, tại http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=423.
[10] Điều 2, ICCPR
[11] Khoản 1, Khoản 2, Điều 6, Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
[12] Khoản 3 Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
[13] Khoản 5, Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
[14] Điều 7, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
[15] Khoản 1 Điều 8, Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
[16] Khoản 2 Điều 8, Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
[17] Khoản 3 Điều 8, Luật tín ngưỡng, tôn giáo.