Vào những năm đầu thế kỷ 20, làn sóng chấn hưng đạo Phật ở Việt Nam nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của giới Phật tử. Từ Sài Gòn, Gia Định, phong trào chấn hưng lan rộng tới các vùng nông thôn, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một số tôn giáo mới được hình thành dưới hình thức mới, vừa hoạt động tôn giáo, vừa giúp đỡ dân nghèo. Một số tôn giáo phát triển trên nền tảng giáo lý nhà Phật, nhưng được cải tiến ngắn gọn và dễ hiểu để phù hợp với sinh hoạt và trình độ của người dân Nam bộ lúc bấy giờ. Điển hình của một trong những tôn giáo mới xuất hiện trong giai đoạn này là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Người sáng lập ra Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có tộc danh là Nguyễn Văn Bồng, sinh năm Bính Tuất (1886) tại xã Tân Mỹ, tổng (huyện) An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Từ thuở còn nhỏ, ông đã theo học chữ Nho, nghiên cứu các bài thuốc chữa bệnh cứu người và được giác ngộ giáo lý nhà Phật. Với nền tảng sẵn có cộng với tư chất thông tuệ, ông đã mau chóng tinh thông nghề y, dược cổ truyền Việt Nam, tỏ ngộ đạo mầu. Đến năm 1934, ông chính thức thành lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, một năm sau (1935), ông được toàn thể tín đồ suy tôn là Đức Tông Sư Minh Trí - Giáo chủ của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Trước phong trào chấn hưng Phật giáo nước nhà, Đức Tông Sư Minh Trí đã chuyển tải giáo lý nhà Phật qua ngôn ngữ thơ ca, văn vần và kinh sách dưới dạng đối đáp ngắn gọn dễ hiểu. Điều đó để mọi người đến được với giáo lý Phật đà, đồng thời hướng mọi người vào hoạt động phước thiện để giúp đỡ người nghèo khó. Với hoạt động Phật pháp gắn với từ thiện nhân đạo, giúp đỡ người nghèo bệnh tật bằng thuốc Nam, số người theo về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam ngày một đông.
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam trở thành một tôn giáo và chính quyền thuộc Pháp lúc bấy giờ đã cấp giấy phép số 619 ngày 20-2-1934 để Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam hoạt động (lúc đó chỉ có sáu chữ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, chưa có hai chữ Việt Nam). Thời kỳ Việt Nam Cộng hoà xác định tính hợp pháp của Giáo hội bằng Nghị định số 83/MI/DAP ngày 22-12-1953 (lúc này có đủ tám chữ “Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam”).
Khi mới ra đời (1934) Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam theo tôn chỉ Lục Phương Tông, chủ trương pháp môn niệm Phật và hành Lục Độ (theo “Lược sử truyền giáo của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam”). Đến năm 1950, nhằm nâng cao trình độ của hội viên, tín đồ, Đức Tông sư Minh Trí chính thức lấy tôn chỉ hành đạo là “Phước huệ - Song tu, lấy Pháp môn niệm Phật làm căn bản, dùng y đạo làm phương tiện phát triển hội quán”.
Hoạt động phát thuốc từ thiện ( Ảnh: TL)
Tu Phước là đóng góp công sức, trí tuệ, tài vật để xây dựng, phát triển ngành y dược dân tộc (phòng thuốc Nam phước thiện) để chữa bệnh miễn phí giúp người đời. Đây được xem là phương tiện để tạo cơ hội cho người nghèo khó có cơ duyên đến với Phật pháp.
Tu Huệ là học Kinh–Luật–Luận của Phật đạo để nâng cao trí tuệ, nâng cao sự hiểu biết để đạt tới giải thoát, an vui. Qua tu huệ để giác ngộ trong việc tu phước, phước và huệ nương nhau, thúc đẩy lẫn nhau phát triển trong một con người, từ đó phát triển rộng ra xã hội, nhằm xây dựng một xã hội đoàn kết, thân ái và tương trợ nhau trong mọi hoàn cảnh.
Về Giáo Lý tu học, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam lấy giáo lý Phật đà làm gốc, song được diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với đời sống của đa số người dân lao động ở Nam bộ. Trong giáo lý của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có nhiều nội dung, song tập trung ở các quyển kinh, luật, luận căn bản:
Lễ bái lục phương: đây là quyển kinh xuyên suốt toàn bộ giáo lý của người tu theo Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam. Nội dung kinh hướng về người cư sĩ tại gia, sống tích cực nhập thế giữa đời thường mà không đánh mất tâm tính bản nhiên thanh tịnh.
Phu thê ngôn luận: dùng hình thức đối đáp giữa hai vợ chồng nhằm đạt tới sự diễn dịch “ý nghĩa ở ngoài lời nói”. Quyển Luận này nhằm khuyến khích người tu hành từ tư tưởng đến hành động đều phải quả quyết, không thoái chuyển.
Đạo đức: đây là quyển kinh ghi lại lời thuyết giảng ý nghĩa và phương pháp thực hành đạo đức của Đức Tông Sư Minh Trí, nội dung chủ trương đạo đức là then chốt của văn minh cũng như của khoa học.
Giới luật: thuyết minh quan điểm của người tu Phật, nhất là người cư sĩ tại gia, nêu rõ tính chất nghiêm minh, cẩn trọng mà người cư sĩ tại gia nếu phát tâm thọ trì Bồ Tát giới cũng có thể đạt được những thành tựu như người xuất gia.
Phật học vấn đáp: là bộ Phật học phổ thông bao quát nhiều trình độ, trong đó thuyết minh rõ về Giáo hội Tăng già, vấn đề Tam qui, Chơn lý tu học, xác định giá trị cũng như vị trí vững chắc của người cư sĩ tại gia trong Phật đạo.
Phương pháp kiến tánh: quyển sách thể hiện nội dung nâng cao trình độ tu học, trình bày từng giai đoạn của quá trình tu học để đạt được “Kiến Tánh”. Người “Kiến Tánh” thì sẽ xa lìa được thiên kiến để thực hành trung đạo. Ví như một nhân tố tích cực, có thể làm cho người đạt tới những lợi ích hữu dụng hơn.
Giáo luật: là những qui định của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (còn gọi là Điều lệ) trong việc phân công, phân nhiệm cụ thể cho hàng chức sắc, chức việc, hội viên, tín đồ. Tóm tắt như sau:
Chức sắc, chức việc: đứng đầu Ban Trị sự Trung ương là ông Chánh Hội trưởng lãnh đạo chung. Đứng đầu các Ban Trị sự Tỉnh hội là ông Hội trưởng. Đứng đầu các ban cấp quận, huyện hội gọi là Trưởng ban Y tế phước thiện.
Cơ sở thờ tự của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam được gọi là hội quán, mỗi hội quán đều có Phòng Thuốc Nam phước thiện. Hội quán là tài sản chung của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, không thuộc về quyền hạn của bất cứ cá nhân nào.
Trong hội quán, những cư sĩ hội viên làm công tác lãnh đạo các cấp gọi là chức sắc, chức việc. Có sáu sắc hội viên: hội viên sáng lập, hội viên danh dự, hội viên phước thiện, hội viên tán trợ, hội viên hành sự, hội viên huấn đạo. Tín đồ là những người theo đạo và có quy y. Các chức sắc, chức việc, hội viên tín đồ phải tuân theo Điều lệ, nội quy của Giáo hội.
Giáo Lễ: Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam hành lễ tuy đơn giản nhưng thành kính. Hàng năm có hai ngày lễ lớn :
- Ngày 8-4 âm lịch: Lễ Phật đản.
- Ngày 23-8 âm lịch: Lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Đức Tông Sư Minh Trí - Giáo chủ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam và Đại hội thường niên ngành Đạo đức.
Hàng tháng vào ngày mùng một và mười lăm âm lịch là những ngày lễ sóc vọng, làm lễ quy y cho tín đồ mới nhập đạo và thuyết giảng giáo lý. Ngoài ra còn tổ chức những ngày lễ chung của đạo Phật, như rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy, rằm tháng Mười v.v…
Hành lễ công phu tứ thời: Theo qui định lễ Phật 24 lạy (giản chính theo Lễ Bái Lục Phương), lễ Đức Quán Thế Âm 12 lạy, lễ Đức Tông Sư Minh Trí 6 lạy.
Cơ cấu tổ chức Giáo hội: Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam quản lý theo hệ thống từ trung ương xuống đến các chi hội. Tỉnh, thành hội trực tiếp quản lý quận, huyện, phường, xã và ấp hội. Có 4 cấp quản lý là Ban Trị sự trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, đến nay vẫn giữ nguyên mô hình này.
Hiện tại, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có 206 hội quán, mỗi hội quán đều có phòng thuốc Nam phước thiện, hiện diện ở 24 tỉnh, thành phố từ Khánh Hoà tới Cà Mau; gần 1,5 triệu tín đồ, 4.800 chức sắc, chức việc, 350.000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên 3000 người làm công việc chế biến thuốc, trụ sở chính đặt tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng, phường 10, quận 6 , TP Hồ Chí Minh.
Đạo kỳ: có biểu tượng chữ “Nhất” viết theo chữ cổ tự. “Nhất” có nghĩa là chung nhất, tất cả đều qui về Một, Một là: đối với huynh đệ coi như anh em một nhà, nên Nhất tâm, Nhất trí đồng lao cộng tác chung lo việc Giáo hội, không phân chia, một lòng một dạ, tương thân tương ái giúp đỡ khuyến khích lẫn nhau lo tu hành.
Phương châm hành đạo của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là “Tu học, hành thiện, ích nước lợi dân”, thực sự lợi đạo, ích đời, đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội. Với những đóng góp tích cực cho xã hội trong suốt quá trình phát triển, ngày 27-11-2007, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã được Nhà nước công nhận là tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân./.
Hồng Điệp, Chuyên viên Vụ Các tôn giáo khác