Giới thiệu khái quát về tôn giáo Baha’i
Ngày đăng: 15/10/2010
I. Khái quát lịch sử ra đời và phát triển của tôn giáo Baha'i: Tôn giáo Baha’i, theo cổ ngữ ARập nghĩa là (Người noi theo ánh sáng của Thượng đế) ra đời năm 1863 tại Ba Tư (cũ) nay là Iran, người sáng lập là Baha'u'llah (có nghĩa là vinh quang của Thượng Đế).Tôn giáo Baha’i bắt nguồn từ phong trào chủ nghĩa Babi (còn gọi là tôn giáo Babi) ra đời ở Ba Tư, kéo dài từ năm 1844-1852.

          Người sáng lập ra phong trào này là Siyyid Ali - Muhammad, được gọi là đức "Bab" (có nghĩa là "cái cửa", ý nói mở đường để đón nhận một Đấng giáo tổ thiêng liêng khác). Ngày 23 tháng 5 năm 1844, Siyyid’Ali Muhammad kêu gọi thành lập một tôn giáo riêng biệt nhằm phục hưng đạo đức và tâm linh cho xã hội Ba Tư, cổ vũ cho vị trí của phụ nữ, cải thiện cuộc sống cho người nghèo, đề cao nền giáo dục nâng cao dân trí và cổ vũ cho các hoạt động khoa học hữu ích.

           Phong trào Babi tồn tại được 9 năm, các tín đồ bị đàn áp và sát hại. Bản thân lãnh tụ Bab sau nhiều năm bị giam cầm, ngày 9 tháng 7 năm 1850 đã bị bắn tại thành phố Tabrriz. Mặc dù vậy tư tưởng của ông vẫn được quần chúng tin theo, đặc biệt với sự tiên đoán của ông, sẽ có một vị Sứ giả của Thượng đế xuất hiện, vị Sứ giả này vĩ đại hơn Bab rất nhiều. Người đó chính là Baha’u’lah (nghĩa là “Vinh quang của Thượng đế”). Baha’u’lah tên thật là Mira Husayn Ali sinh ngày 12 tháng 11 năm 1817 trong một gia đình quyền quý Ba Tư, là người theo phong trào Babi nên ngay từ thời thanh niên, ông đã khước từ mọi địa vị chính trị, sử dụng sản nghiệp của mình để chăm sóc người nghèo khó và bệnh tật. Sau khi Bab bị nhà cầm quyền hành quyết, ông đã trở thành lãnh tụ của đạo Babi. Vào năm 1863, Ali đã tuyên bố chính ông là Người dẫn dắt thế giới, giống như lời tiên tri của Bab trước đó. Từ đó Ali được gọi là Baha'u'llah.

            Sau khi Bab bị xử bắn, chính quyền Ba Tư tăng cường các biện pháp nhằm dập tắt tôn giáo mới (Baha’i). Tín đồ Baha’i bị đàn áp dã man dẫn đến họ phải tự vệ trước những cuộc tấn công, do vậy vào tháng 8 năm 1852, hai người Ba tư đã tiến hành mưu sát vua Ba Tư. Biến cố này dẫn tới cuộc đàn áp của chính quyền với cộng đồng Baha’i càng mạnh mẽ hơn. Baha'u'llah đã bị bắt và lưu đầy nhiều nơi, sau cùng là tại Akka (nay thuộc Israel). Tại đây, Baha'u'llah bị giam giữ khoảng 24 năm. Trong thời gian này, Baha'u'llah đã chỉ định lấy 2 thành phố Akka và Haifa làm Trung tâm Tâm linh và Quản trị của tôn giáo Baha’i, ông chết và chôn tại Haifa (Israel) vào năm 1892. Lăng của Baha'u'llah là nơi thiêng liêng nhất của tôn giáo Baha’i và là Trung tâm hành hương của tôn giáo Baha’i.
 
          Khi Baha'u'llah qua đời, quyền lãnh đạo được truyền cho trưởng nam của ông là Abbas - Effendi tức là Abdu’ l – Baha (1844 - 1921) (nghĩa là tôi tớ của Thượng đế). Trước khi chết, Abdu’ l – Baha đã chỉ định cháu ngoại của mình là Shohoghi - Effend (1897 - 1957) làm Giáo hộ và thủ lĩnh tinh thần tôn giáo Baha'i. Sau khi Shoghi- Effendi qua đời, nền quản trị được chuyển sang một Hội đồng Quốc tế, từ đây tôn giáo Baha'i đã hình thành và phát triển.  
Hiện nay, tôn giáo Baha’i có tín đồ ở phần lớn các nước Hồi giáo. Trước những năm 1950, trên 90% tín đồ Baha'i là người Iran, nhưng hiện nay chỉ chiếm khoảng 6% tổng số tín đồ trên thế giới. Ấn Độ là quốc gia có số lượng tín đồ Baha'i đông nhất thế giới, khoảng hơn 2 triệu người. Có những nghiên cứu cho rằng, phần lớn các tín đồ Baha'i trong các nước thuộc thế giới thứ ba là nông dân và công nhân ở đô thị, còn ở các nước Tây Âu thì tín đồ Baha'i phần lớn là thuộc tầng lớp trung lưu da trắng.
Năm 1921, tín đồ Baha’i có ở 35 nước trên thế giới.
          Năm 1990, có 4,9 triệu tín đồ ở 214 quốc gia và vùng lãnh thổ bao gồm đại diện gần 2.000 sắc tộc và bộ lạc trên thế giới.
          Năm 2000, có hơn 5 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ.
          Đến nay (năm 2010), có khoảng 7 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc hơn 2.100 sắc tộc.
          Năm 1948, cộng đồng Baha’i quốc tế được chính thức chấp nhận tại Liên hợp quốc là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển. Đến tháng 5 năm 1970, tham gia trên cương vị tư vấn tại Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC). Đại diện tôn giáo Baha’i đã được bầu là Chủ tịch các Uỷ ban của Tổ chức phi Chính phủ tại Liên hợp quốc. Ngoài ra, cộng đồng Baha'i quốc tế có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức khác của Liên hợp quốc như: Tổ chức y tế thế giới (WHO), Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ trẻ em của Liên hợp quốc (UNICEF) và đặc biệt là năm 1991, Quỹ phát triển vì Phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) đã tài trợ cho cộng đồng Baha'i quốc tế trong một dự án sử dụng các phương tiện truyền thông để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ… 
 
          II. Giáo lý, giáo luật và lễ nghi của tôn giáo Baha'i:
          1. Về giáo lý:
          Cũng như các tôn giáo khác, tín đồ Baha'i cũng tin rằng tất cả các tôn giáo trên thế giới do Thượng đế tạo ra, Thượng đế đã cử nhiều sứ giả trước đó như: Abraham, Moses, Giêsu, Muhammad,…để hướng dẫn nhân loại biết cách tìm hiểu và thờ phụng Người. Đấng sứ giả của Thượng đế trong thời đại này là Baha'u'llah, giáo lý căn bản của tôn giáo Baha'i là:
          - Thượng đế là Đấng tối cao duy nhất,
          - Tất cả các tôn giáo đều có chung một nguồn gốc thiêng liêng,
          - Mọi người đều thuộc một gia đình - gia đình nhân loại, vì chúng ta là con cái của Thượng đế.
         Baha'u'llah đã trao cho tín đồ nhiệm vụ đem giáo lý của mình đến toàn thể nhân loại bằng lời nói và gương tốt, cấm sự ép buộc. Tín đồ Baha’i chỉ trao tặng giáo lý cho những ai muốn tìm hiểu, không cố nài khi có người tỏ ý không muốn nghe. Trong suy nghĩ, tín đồ Baha’i luôn tôn trọng quyền của mỗi cá nhân tự tìm chân lý một cách độc lập.
 
          2. Về giáo luật:
          2.1 Về cầu nguyện và đọc thánh kinh:
          Người Baha’i cầu nguyện hàng ngày vào buổi sáng, lấy 3 bản kinh bắt buộc đều do Đức Baha'u'llah mạc khải, mọi tín đồ Baha’i từ 15 tuổi trở lên được chọn một trong ba bản kinh ấy để đọc hàng ngày. Kinh cầu nguyện này bắt buộc mọi người phải đọc riêng, không được đọc kinh hàng loạt, trừ trường hợp cầu nguyện trong tang lễ. Cầu nguyện chủ yếu ở nhà, họ chỉ gặp nhau vào ngày lễ.
Baha’u’llah đã tập trung nhiều điều giáo huấn của mình trong 150 bộ sách với 12 nguyên lý chính sau:
          - Thống nhất nhân loại;
          - Tìm hiểu chân lý một cách độc lập;
          - Thượng đế duy nhất và các giáo chủ đồng nhất;
          - Mục đích của tôn giáo là xây dựng sự thống nhất và hoà hợp;
          - Tôn giáo phải đi đôi với khoa học và lý trí;
          - Huỷ bỏ thành kiến và mê tín;
          - Nam nữ bình đẳng;
          - Giáo dục phổ thông bắt buộc;
          - Chấp nhận một thế giới ngữ phụ để tránh sự hiểu lầm nhau vì bất đồng ngôn ngữ;
          - Giải pháp tâm linh đối với vấn đề kinh tế, lấy sự hiểu biết tư bản và cần lao làm nền tảng;
          - Một Pháp viện quốc tế để ngăn chặn mọi xung đột giữa các quốc gia;
          - Thế giới hoà bình. 
          2.2 Các lễ cầu nguyện và trai giới:  
          * Trong năm có 9 ngày Thánh lễ và thời kỳ trai giới:
         - Năm mới bắt đầu vào tối 21/3 gọi là lễ Naw-Ruz (tết Baha’i).
         - Ngày 21/4, vào lúc 15 giờ là ngày đầu lễ Rid Van, tức là ngày tuyên ngôn của Baha’u’llah (năm 1863).
         - Ngày 23/5, vào lúc 2 giờ 11 phút, sau mặt trời lặn là tuyên ngôn của Bab (23/5/1844).
         - Ngày 29/5, lúc 3 giờ sáng là lễ thăng thiên của Baha'u'llah (29/5/1892).
         - Ngày 9/7, lúc 12 giờ trưa là lễ tử đạo của Bab (1850).
         - Ngày 20/10, là lễ giáng sinh của Bab (1819).
         - Tối 12/11, là lễ giáng sinh của Baha'u'llah (1817).
         - Tối 26/11, là lễ giao ước.
         - 01 giờ sáng ngày 28/11, là lễ thăng thiên của Abdul - Baha (1921).
          Lễ gồm 3 phần:
          - Phần tâm linh : Cầu nguyện, tưởng nhớ các bậc tiền bối.
          - Phần quản trị: Thảo luận về việc phát triển tôn giáo địa phương và chào mừng những tín đồ mới.
          - Phần xã hội: chúc sức khoẻ các đạo hữu và gia đình, dùng bánh nước với nhau.
           Ngoài những ngày thánh lễ trên, tín đồ Baha’i phải trai giới 19 ngày liền trong mỗi năm, từ ngày 2/3 - 21/3, thời gian này là một tháng Baha’i (tháng thứ 19 của lịch Baha’i). Trong thời gian này phải nhịn ăn uống ban ngày, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn và chỉ ăn uống vào buổi tối, nhằm dành thời gian cho việc rèn luyện ý trí, cầu nguyện và suy tưởng. Những người dưới 15 tuổi và trên 70 tuổi, người bệnh, người có thai và cho con bú, đàn bà có kinh nguyệt, du khách và những người lao động nặng nhọc chân tay đều được miễn.
          2.3 Về truyền giáo:
Vì tôn giáo Baha'i không có chức sắc, do vậy việc truyền giáo là nhiệm vụ của mọi tín đồ.
          2.4 Về hôn nhân gia đình:
           Hôn nhân được tiến hành khi hai bên nhất trí và cha mẹ cho phép (nếu cha mẹ còn sống). Hôn lễ tổ chức giản dị, gồm có cô dâu và chú rể đọc một câu kinh ghi sẵn trước hai nhân chứng được Hội Đồng tinh thần địa phương chấp thuận và cấp giấy hôn thú, ngoài ra còn chịu sự chi phối của pháp luật trong nước.
          Tín đồ Baha’i được phép kết hôn với người khác chủng tộc, không phân biệt mầu da và tôn giáo.
          2.5 Về vấn đề ly dị:   
          Luật Baha’i hạn chế việc ly dị, Hội Đồng tinh thần địa phương có trách nhiệm hoà giải khi các cặp vợ chồng xẩy ra các chuyện bất hoà, nếu hoà giải không thành, vợ chồng sẽ ly thân trong một năm, sau một năm nếu hai bên vẫn bất hoà thì có thể ly dị theo pháp luật hiện hành của nước sở tại.
          2.6 Về tu kín và xuất thế:   
         Tôn giáo Baha'i cấm việc tu kín và xuất thế. Baha'u'llah khuyên tín đồ tích cực tham gia vào đời sống xã hội và nâng cao hạnh phúc chung, coi hôn nhân và đời sống gia đình là điều quan trọng căn bản của xã hội loài người.
          2.7 Về thủ tục nhập đạo:
         Tôn giáo Baha’i không có phép bí tích như Thiên Chúa giáo. Không có lễ Báp - tem hay thêm sức cho trẻ em, con của cha mẹ theo tôn giáo Baha’i đến 15 tuổi đương nhiên có trách nhiệm sống theo giáo lý.
         Người nào tin nhận Baha'u'llah là sứ giả Thượng đế, thì bày tỏ đức tín của mình với Hội đồng Tinh thần địa phương (HĐTTĐP) của tôn giáo Baha’i nơi gần nhất, người đó sẽ được Hội đồng Tinh thần này xem xét công nhận là tín đồ. Nếu tín đồ nào không còn tin Baha'u'llah và muốn rời khỏi cộng đồng Baha’i, người đó phải thông báo cho Hội đồng Tinh thần nơi đó biết để xoá tên khỏi danh sách bầu cử. 
         2.8 Quy định về lịch:
         Lịch Baha’i tính theo năm mặt trời, bắt đầu vào ngày xuân (thường là ngày 21/3 theo dương lịch). Một năm chia ra 19 tháng, mỗi tháng gồm 19 ngày cộng thêm 4 ngày dư (năm nhuận có 5 ngày dư), những ngày dư nằm giữa tháng thứ 18 và tháng thứ 19, tháng 19 là tháng chay.
          Một ngày Baha’i bắt đầu từ lúc mặt trời lặn hôm trước đến lúc mặt trời lặn hôm sau.
          2.9 Về đóng góp quỹ của đạo:
          Mọi tín đồ Baha'i, tự nguyện đóng góp tài chính cho các hoạt động tôn giáo và coi đây là một nghĩa vụ thiêng liêng của mình. Các tài trợ bên ngoài không được tiếp nhận, trừ trường hợp làm từ thiện xã hội.
          2.10 Một số quy định khác:
         - Cấm dùng rượu, ma tuý,
         - Cấm nói xấu sau lưng và chỉ trích người khác,
         - Trung thành với chính phủ và không tham gia vào các hoạt động chính trị.
 
          III. Các sinh hoạt của tôn giáo Baha'i:
          Tôn giáo Baha’i không có tu sĩ, các sinh hoạt của đạo tại bất cứ thành phố, thị trấn hoặc làng xã nào đều được phối hợp bởi một Hội đồng gồm 9 uỷ viên được bầu cử bằng phiếu kín mỗi năm một lần gồm tất cả tín đồ Baha’i trưởng thành sống tại mỗi địa phương.
Mỗi lần 19 ngày (một tháng của đạo), cả cộng đồng họp để hội ý bàn các công việc của cộng đồng và củng cố tình bằng hữu. Nếu cộng đồng quá lớn không thể hội họp một chỗ được thì đồng thời tổ chức nhiều cuộc họp ở các nơi trong địa phương đó. Mục đích các cuộc họp là xây dựng vững chắc sự thống nhất cộng đồng và giúp mọi người bày tỏ quan điểm của mình về mọi công việc của cộng đồng, thảo luận và đưa những đề nghị lên Hội đồng xem xét. Qua đó các quan điểm và đề nghị của mọi người được đưa đến Hội đồng địa phương và có thể đến Hội đồng quốc gia hoặc có khi lên tới Trung tâm thế giới của tôn giáo Baha’i.
          Các cuộc họp khác của cộng đồng địa phương diễn ra trong 9 ngày Thánh lễ theo năm Baha’i và 2 ngày tưởng niệm liên quan đến Abdul - Baha.
 
 
Đại hội tôn giáo Baha'i
          
              IV. Hệ thống cơ sở thờ tự:
Trên thế giới, tôn giáo Baha’i có 5 ngôi đền lớn, mỗi ngôi đền có 9 cạnh, tượng trưng cho 9 tôn giáo lớn hợp nhất (đạo Sabean, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Bái Hoả giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, đạo Babi và tôn giáo Baha’i). Thánh địa trung tâm ở trên núi Carmel tỉnh Haifa - Israel (Do Thái cũ), là nơi có Thánh lăng của Bab, Baha'u'llah và Abdul – Baha. Các đền thờ đặc biệt ở tại Iskhabat (Liên Xô cũ), Wilmette gần Chicagô (Mỹ), Panama City (Panama), Kampala (Uganda); Ingleisde gần Sydney (Úc).
V. Về hệ thống tổ chức:
            Hội đồng Tinh thần chia làm 3 cấp: Hội đồng Tinh thần địa phương, Hội đồng Tinh thần quốc gia và Hội đồng Tinh thần quốc tế (tức là Toà Công lý quốc tế). Trung tâm quốc tế tôn giáo Baha’i hiện nay đặt trên núi Carmel, tỉnh Haifa (Israen). Đứng đầu Trung tâm là Đức Giám hộ. Đức Giám hộ chỉ định trên toàn thế giới 27 vị phụ tá Giám hộ để giữ việc coi sóc các mối đạo và kêu gọi nhân loại xây dựng toà nhà thống nhất. Hệ thống này, các tín đồ Baha’i gọi là trụ cột Thống nhất, trụ cột này giúp cho tín đồ tuân theo các giáo huấn của Baha’u’llah. Các tín đồ thấy điều gì nghi ngờ thì các phụ tá Giám hộ giải thích, và có thể nhờ vị phụ tá Giám hộ tại Thánh địa (tại Haifa) xem lại chính văn của Bab, của Baha’u’llah và Abdul - Baha để hiểu rõ. Bên cạnh hệ thống thống nhất trên, đạo còn có một hệ thống dân chủ, đó là các Hội đồng Tinh thần được bầu cử bằng phiếu kín (hai trụ cột, trụ cột Thống nhất và trụ cột Dân chủ).
            Tôn giáo Baha’i không có các tu sỹ. Để lo việc đạo đã có Hội đồng tinh thần tại mỗi địa phương. Hội đồng này gồm 9 người được bầu lại hàng năm vào khoảng thời gian từ 21/4 đến 2/5 do toàn thể tín đồ trưởng thành từ 21 tuổi trở lên bầu.
            Trên Hội đồng Tinh thần địa phương là Hội đồng Tinh thần quốc gia tại mỗi nước. Các Hội đồng Tinh thần địa phương bầu 1 hoặc 2 đại biểu tuỳ theo số lượng tín đồ, tham dự Hội đồng Tinh thần quốc gia, tất cả các tín đồ đều được coi như ứng cử viên trong cuộc bầu cử này. Cao nhất là Hội đồng Tinh thần quốc tế, Hội đồng này được bầu tại Haifa từ năm 1963, các thành viên có ở hơn 60 Hội đồng tinh thần quốc gia và Hội đồng tinh thần vùng.
            Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tinh thần là lo việc truyền giáo, tổ chức các cuộc lễ, các lớp giáo lý, các cuộc họp, các Thánh lễ, ấn loát kinh sách, kiểm duyệt các ấn phẩm về tôn giáo Baha’i, giải quyết các vấn đề liên quan tới đời sống tín đồ, bảo vệ đức tin, nhắc nhở tín đồ trong cộng đồng tuân thủ các luật lệ tôn giáo, chính sách, pháp luật của nhà nước, tổ chức công tác từ thiện xã hội, đảm nhận vấn đề quĩ của đạo và chỉ định các tín đồ vào các Uỷ ban đặc biệt để giúp việc cho Hội đồng.
 Hội đồng Tinh thần Baha’i ở tất cả các cấp đều được bầu bằng phiếu kín, không có đề cử. Mỗi tín đồ được ghi một danh sách gồm 9 người Baha’i trưởng thành trong cộng đồng mà mình xét thấy là có đủ đức tính tốt, có khả năng rõ rệt và kinh nghiệm chín chắn. 9 người Baha’i có số phiếu cao nhất sẽ được đắc cử vào Hội đồng; sự thoái thác chỉ được chấp nhận khi có lý do thật chính đáng.
            Như vậy, nền quản trị của tôn giáo Baha'i gồm có: Một bên là các Hội đồng công cử toàn cầu, cấp quốc gia và cấp địa phương, các cơ quan này có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với cộng đồng Baha'i. Còn bên là những nhóm cá nhân (các Cố vấn) có tài năng và kinh nghiệm được chỉ định để làm tư vấn cho các Hội đồng và các tín đồ. Những Cố vấn này không phải là các tu sỹ (vì Baha'i không có tu sĩ), nhiệm vụ của họ là làm tư vấn, không có quyền quyết định đối với các Hội đồng.
VI. Quá trình du nhập và phát triển tôn giáo Baha’i tại Việt Nam:         
Tôn giáo Baha'i được truyền vào Việt Nam từ năm 1954, do một nữ tín đồ Baha’i, người Ấn Độ.
Trước năm 1975 tôn giáo Baha’i Việt Nam có khoảng 95.000 tín đồ. Hiện nay có gần 7.000 tín đồ, phân bố ở 45 tỉnh, thành phố. Trong đó, tập trung đông nhất tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Lai, Ninh Thuận, Bình Thuận, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Hậu Giang, Kiên Giang… 
Tôn giáo Baha’i Việt Nam được chứng nhận đặng ký hoạt động tôn giáo từ tháng 3 năm 2007. Ngày 21 tháng 3 năm 2008, Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam đã tiến hành tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất để bầu Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt Nam và thông qua Hiến chương, chương trình hoạt động của đạo. 
Ngày 14 tháng 7 năm 2008, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã ký quyết định công nhận tổ chức đối với Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam.