Một số quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên hiện nay
Ngày đăng: 17/05/2021
Ảnh minh họa (st)
Thực hiện pháp luật về tôn giáo là bước tiếp nối của quá trình xây dựng pháp luật về tôn giáo, là hiện thực hóa các quy định của pháp luật vào đời sống. Trên cơ sở thực hiện pháp luật về tôn giáo có thể nắm bắt, đánh giá được vai trò của pháp luật trong đời sống của nhân dân; những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện; các quy định của pháp luật về tôn giáo tiến bộ hoặc lạc hậu, không còn phù hợp đời sống thực tiễn cũng như những khoảng trống pháp lý cần các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, hoàn thiện. Thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên cần phải đạt được các mục tiêu như đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân; phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng ở Tây Nguyên; tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo;...

Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được quy định trong các Nghị quyết của Đảng; các bản hiến pháp và sau đó được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật quy định trực tiếp về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Luật tín ngưỡng, tôn giáo,…) cũng như các văn bản pháp luật có liên quan (pháp luât về dân sự, hình sự, đất đai, xây dựng,…). Tuy nhiên, có hệ thống các công cụ pháp lý đầy đủ, hoàn thiện; có bộ máy tổ chức với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo vừa chuyên, vừa hồng;… nhưng trong thực hiện nhiệm vụ nếu chưa nắm bắt được đường hướng, quan điểm chỉ đạo, cách thức, phương pháp thực hiện thì nhiệm vụ đó, công việc đó chưa chắc đã đem lại hiệu quả. Lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo vốn là lĩnh vực nhạy cảm, đặc thù và càng đặc thù hơn khi các hoạt động này diễn ra trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Nhận thức và nắm bắt được quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo để áp dụng vào thực tiễn đời sống tôn giáo là hết sức cần thiết. Bài viết này xin tập trung đưa ra một số quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các tỉnh Tây Nguyên.

1. Thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên phải đạt được mục tiêu đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân theo chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước [1].

Tiếp đó, ngày 12/3/2003, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo. Nghị quyết số 25-NQ/TW khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật [5].

Để thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm này, Điều 1 của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đã quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đó là: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau [4].

Năm 2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (thường gọi là Hiến pháp năm 2013). Hiến pháp năm 2013 được ban hành đã trở thành sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng ở Việt Nam. Với tinh thần cởi mở, đổi mới sâu sắc trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, Điều 24 của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật [2].

 Như vậy, có thể thấy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được mở rộng về chủ thể từ “công dân” trong bản Hiến pháp năm 1992 đến “mọi người” trong bản Hiến pháp năm 2013. Điều đáng nói ở bản Hiến pháp năm 2013 đó là việc khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản của con người, là quyền của mọi người, quyền tự thân mà bất cứ ai sinh ra đều có, không phải do một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào ban tặng.

Bên cạnh đó, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [2]. Điều này cho thấy việc hạn chế quyền con người, quyền công dân (quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người) chỉ có thể bằng luật (không phải pháp luật) và trong các trường hợp cần thiết. Việc quy định các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và hạn chế các quyền này đã được Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định: Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác [6].

Cụ thể hóa quy định trên, Điều 6, 7, 8 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của rất nhiều chủ thể bao gồm từ quyền của mọi người, quyền của mỗi người, quyền của người chưa thành niên, quyền của chức sắc, chức việc, nhà tu hành, quyền của những người bị hạn chế quyền công dân, quyền của các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, của tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, của tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức tôn giáo, quyền của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Tùy thuộc vào mỗi chủ thế khác nhau mà Nhà nước cũng dành cho những quyền nhất định trong quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Đối với mọi người đó là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Đối với mỗi người đó là quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo [3]. Và bất cứ ai cũng có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác. Đặc biệt, đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo để phục vụ cho nhu cầu tôn giáo của cá nhân.

Đối với các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung được đăng ký sinh hoạt tại một địa điểm hợp pháp cụ thể (có thể thuê, mượn) hoặc tại các cơ sở tôn giáo; được thay đổi người đại diện hoặc địa điểm sinh hoạt tôn giáo nếu có nhu cầu.

Đối với các tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý; bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc; sửa chữa, cải tạo trụ sở; tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo; tổ chức đại hội thông qua hiến chương.

Đối với các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đó là thực hiện các quyền như hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ; tổ chức sinh hoạt tôn giáo; xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo; cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo; nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho và các quyền khác theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đối với người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam đươc quyền sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.

Từ các quy định rộng mở của quan điểm, chủ trương của Đảng cho đến sự thể chế hóa bằng pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đòi hỏi việc thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung phải thực hiện, áp dụng được các quy định nêu trên trên thực tế. Việc đảm bảo thực hiện các quy định này ở Tây Nguyên cũng chính là thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm thực hiện cho được mục tiêu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho Nhân dân.

2. Thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên phải phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh -  quốc phòng ở Tây Nguyên

Thực tiễn thực hiện pháp luật về tôn giáo cho thấy, mỗi chủ thể của quyền tự do tôn giáo đặc biệt là các chủ thể ở khu vực Tây Nguyên được thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có những đặc thù riêng nên cần phải nghiên cứu cụ thể, cẩn trọng để có chính sách tác động thích hợp. Người dân tộc Ba - Na có nết truyền thống, văn hóa, chữ viết khác người Ê – đê, Xơ – đăng, Cơ – ho; Gia – rai, Kinh, … thậm chí trong cùng một tỉnh, huyện, xã đã có nhiều loại cư dân sinh sống [7] càng cần có cơ chế, chính sách đặc thù tác động phù hợp. Từ những đặc thù này cho thấy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định trong các văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản khác có liên quan quy định về tín ngưỡng, tôn giáo còn cần có sự quan tâm thực hiện bằng các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo (kế hoạch, quyết định, công văn, …) của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ trung ương (Chính phủ, các bộ, ngành liên quan) đến địa phương (Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, ngành, …).

Thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Tình hình (kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị,…) ở các tỉnh Tây Nguyên những năm 2004 trở về trước cho thấy, khi vấn đề thực hiện pháp luật về tôn giáo nói riêng, thực hiện pháp luật ở các lĩnh vực khác nói chung chưa được quan tâm, coi trọng, nhiều quyền cơ bản của con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân chưa được thực hiện hiệu quả đã dẫn đến tình hình an ninh, trật tự không ổn định, kinh tế trì trệ, kém phát triển, đời sống văn hóa tinh thần của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số nghèo nàn, lạc hậu. Kể từ năm 2004, khi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành đến nay, đặc biệt là sau khi thực hiện Đề án “Phổ biến pháp luật cho tín đồ các tôn giáo” thực hiện từ năm 2005 đến năm 2007 và triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo thì tình hình thực hiện pháp luật về tôn giáo trên địa bàn cả nước trong đó có khu vực Tây Nguyên ngày càng được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện. Việc quan tâm này của các cấp, các ngành được thể hiện từ việc triển khai các văn bản pháp luật (về tín ngưỡng, tôn giáo, hình sự, dân sự, đất đai, xây dựng, khiếu nại, tố cáo, …) qua các hội nghị, các cuộc trao đổi, tiếp xúc với người dân đến việc áp dụng, thực hiện các quy định. Từ đó mà nhiều quy định của pháp luật về tôn giáo được hiện thực hóa, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người, lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước được củng cố. Khi tinh thần của người dân được khơi thông, lòng tin được vững chắc sẽ là bệ đỡ để phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh ở khu vực này. Qua đó đã minh chứng rằng có một mối quan hệ mật thiết giữa thực hiện pháp luật về tôn giáo với phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Thực hiện pháp luật về tôn giáo tạo ra những tiền đề, điều kiện, động lực cần thiết cho phát triển kinh tế, động lực không thể thiếu, cốt lõi cho việc đảm bảo quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ngược lại. Đây là mối quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau.

Để hỗ trợ hiệu quả cho thực hiện pháp luật về tôn giáo, khu vực Tây Nguyên còn cần phải phát triển mạnh mẽ về giáo dục, đào tạo, dạy nghề; từng bước đầu tư, nâng cấp, chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, đội ngũ giáo viên, có chính sách đặc thù để nâng cao chất lượng giáo dục, trình độ dân trí cho người dân Tây Nguyên trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số. Áp dụng rộng rãi chính sách cử tuyển cho đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển các hình thức trường nội trú, bán trú, trung tâm học tập cộng đồng. Bên cạnh đó, cần quan tâm, đầu tư cho y tế, dịch vụ để chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng tốt hơn; bảo đảm và duy trì giống nòi cho các tộc người; khống chế có hiệu quả các loại dịch bệnh; phấn đấu để đồng bào dân tộc thiểu số được khám định kỳ, chữa bệnh miễn phí; thu hẹp sự chênh lệch về khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người dân giữa các dân tộc ở Tây Nguyên với người dân trên cả nước.

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước về kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh; là địa bàn cư trú lâu đời của nhiều tộc người, các tộc người ở đây dù khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán nhưng đều là người dân Việt Nam, cùng một dân tộc Việt Nam. Vì vậy, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước luôn coi trọng việc phát triển kinh tếxã hội, củng cố quốc phòng – an ninh miền núi, tây nguyên, phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, củng cố hệ thống chính trị, đào tạo cán bộ, nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số. Mặt khác, không được sao nhãng, phải nâng cao cảnh giác, chống lại các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo; củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về tôn giáo.

3. Thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên phải hướng tới tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo

Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo là nội dung quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đây không chỉ là một nội dung của thực hiện pháp luật về tôn giáo mà còn là hoạt động nhằm bảo đảm pháp luật về tôn giáo được tổ chức và thực hiện nghiêm túc trong xã hội. Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo bằng pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền các cấp, phân công trách nhiệm rõ ràng, minh bạch, tránh chồng chéo về quyền hạn, nhiệm vụ; củng cố, nâng cao vị thế, vai trò của các cơ quan tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp phù hợp và đáp ứng với nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, bộ máy tổ chức làm công tác tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp trong đó có các cấp ở 05 tỉnh khu vực Tây Nguyên chưa được coi trọng, ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Từ năm 2007 đến nay, ngành quản lý nhà nước về tôn giáo được sáp nhập vào ngành nội vụ. Ở Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ sáp nhập vào Bộ Nội vụ (Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 08/8/2007 của Chính phủ về việc chuyển Ban Thi đua – khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ vào Bộ Nội vụ). Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban (Phòng) Tôn giáo được sáp nhập vào Sở Nội vụ. Cấp huyện, Phòng Nội vụ được giao nhiệm vụ tham mưu, theo dõi công tác này (có 01 Phó phòng phụ trách và 01 chuyên viên kiêm nhiệm). Cấp xã không có công chức phụ trách, tùy từng xã công tác này giao cho Phó Chủ tịch hoặc Trưởng Công an xã phụ trách. Số lượng công chức làm công tác tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp tỉnh, cấp huyện trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên không nhiều. Từ việc sắp xếp, bố trí bộ máy đến công chức tham mưu lĩnh vực này chưa phù hợp dẫn đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo thời gian qua hiệu quả còn ở mức độ.

Bên cạnh đó, các quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo hiện đang giao rất nhiều thẩm quyền, trách nhiệm nặng nề cho các cơ quan quản lý, tham mưu quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Theo thống kê các thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, Bộ Nội vụ có 43 thẩm quyền, trách nhiệm; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có 15; Sở Nội vụ có 20; Ủy ban nhân dân cấp huyện có 08 và Ủy ban nhân dân cấp xã có 10. Các thẩm quyền, trách nhiệm này bị ràng buộc bởi các quy định của Luật (Điều 65), vì vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cũng như bộ máy làm công tác tham mưu quản lý nhà nước về tôn giáo ngày càng phải được quan tâm, củng cố đảm bảo về cả số lượng và chất lượng để thực thi nhiệm vụ.

Nhằm từng bước tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, một trong những nội dung cần quan tâm đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tôn giáo theo hướng ngày càng tăng quyền tự do tôn giáo cho các chủ thể theo hướng quy định rõ ràng, minh bạch, đảm bảo khả thi và quy định cụ thể trách nhiệm cho các tổ chức, cá nhân có liên quan. Đây là khâu vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.

Để pháp luật về tôn giáo đi vào cuộc sống, các quy định của pháp luật về tôn giáo đến được với các tổ chức, cá nhân tôn giáo và mọi người dân, từ đó giúp họ nắm bắt, hiểu và thực hiện đúng các quy định, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng là một nhiệm vụ để giúp cho công tác tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo được hiệu quả trong thời gian tới./.

 

TS. Nguyễn Thị Định

Tài liệu tham khảo

1. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992.

2. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

3. Quốc hội (2016), Luật tín ngưỡng, tôn  giáo.

4. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966).

7. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ Luật học.