Vấn đề đất đai, xây dựng liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay
Ngày đăng: 17/01/2025Luật Xây dựng năm 2020 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 17/6/2020 và có hiệu lực ngày 01/01/2021 (trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật số 62/2020/QH14); Luật Đất đai năm 2024 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp bất thường lần thứ năm thông qua ngày 18/01/2024, bên cạnh một số quy định có hiệu lực từ ngày 01/4/2024 (khoản 2 Điều 252 của Luật số 31/2024/QH15) hoặc từ ngày Nghị quyết số 61/2022/QH15 hết hiệu lực (khoản 3 Điều 252 của Luật số 31/2024/QH15), các nội dung liên quan đến đất tín ngưỡng, tôn giáo bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/8/2024; Nghị định số 95/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Chính phủ ban hành ngày 29/12/2023 và có hiệu lực ngày 30/3/2024. Phóng viên Trung tâm Thông tin và Truyền thông, Ban Tôn giáo Chính phủ đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Định, Trưởng phòng Thanh tra - Pháp chế, Ban Tôn giáo Chính phủ về một số nội dung đất đai, xây dựng liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo được quy định tại các văn bản này. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Phóng viên:
Xin bà cho biết, theo quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng (gọi là Luật Xây dựng năm 2020) có nhiều nội dung mới, trong đó có nội dung quy định về thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng cho công trình tôn giáo. Vậy nội dung này được quy định thế nào?
Bà Nguyễn Thị Định:
Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật Xây dựng năm 2020 và Luật này có hiệu lực ngày 01/01/2021. Luật Xây dựng năm 2020 có nhiều nội dung mới, trong đó có nội dung về thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng cho công trình tôn giáo, cụ thể khoản 37 Điều 1 của Luật quy định về “Bãi bỏ khoản 1, sửa đổi, bổ sung khoản 2 và khoản 3 Điều 103 như sau:
“2. Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép xây dựng đối với công trình thuộc đối tượng có yêu cầu phải cấp giấy phép xây dựng trên địa bàn tỉnh, trừ công trình quy định tại khoản 3 Điều này. Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh phân cấp, ủy quyền cho Sở Xây dựng, Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, Ủy ban Nhân dân cấp huyện cấp giấy phép xây dựng thuộc chức năng và phạm vi quản lý của cơ quan này.
3. Ủy ban Nhân dân cấp huyện cấp giấy phép xây dựng đối với công trình cấp III, cấp IV và nhà ở riêng lẻ trên địa bàn do mình quản lý”.
Theo quy định tại mục 1.1.6 Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư số 06/2021/TT-BXD thì công trình tôn giáo được xác định là công trình cấp III, trừ các công trình có chiều cao trên 28m (mục 2.1.1).
Do đó, thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng đối với công trình tôn giáo sẽ thuộc về Ủy ban Nhân dân cấp huyện trừ các công trình có chiều cao trên 28m như nêu trên.
Phóng viên:
Ngày 29/12/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2023/NĐ-CP, trong đó có nội dung quy định giải thích rất mới về công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ; quy định về việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ? Xin bà cho biết về các nội dung này?
Bà Nguyễn Thị Định:
Ngày 29/12/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định số 95/2023/NĐ-CP có hiệu lực thi hành ngày 30/3/2024. Nghị định này có nhiều nội dung mới trong đó có giải thích về công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ tại Điều 3, cụ thể:
Công trình tín ngưỡng: là công trình xây dựng theo quy định của pháp luật do: cộng đồng dân cư đầu tư xây dựng để làm cơ sở tín ngưỡng; cộng đồng dân cư đầu tư xây dựng để làm tượng đài, bia và tháp thuộc cơ sở tín ngưỡng; dòng họ đầu tư xây dựng để làm nhà thờ dòng họ.
Công trình tôn giáo là công trình xây dựng theo quy định của pháp luật do: tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đầu tư xây dựng để làm cơ sở tôn giáo; tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đầu tư xây dựng để làm tượng đài, bia và tháp thuộc cơ sở tôn giáo.
Công trình phụ trợ là công trình xây dựng không sử dụng cho việc thờ tự của cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo gồm nhà ở, nhà khách, nhà ăn, nhà bếp, tường rào và các công trình tương tự khác trong khuôn viên cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo.
Phóng viên:
Nghị định số 95/2023/NĐ-CP đã quy định về việc xác định công trình phụ trợ thuộc đối tượng miễn giấy phép xây dựng được thực hiện theo quy định tại khoản 30 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng số 62/2020/QH14 ngày 17/6/2020? Vậy quy định này được hiểu thế nào để thực hiện?
Bà Nguyễn Thị Định:
Nghị định số 95/2023/NĐ-CP đã quy định về việc xác định công trình phụ trợ thuộc đối tượng miễn giấy phép xây dựng được thực hiện theo quy định tại khoản 30 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng số 62/2020/QH14 ngày 17/6/2020 điều này được hiểu là khi xem xét các công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo được miễn giấy phép xây dựng thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần căn cứ vào khoản 30 Điều 1 của Luật Xây dựng số 62/2020/QH14 và các văn bản pháp luật có liên quan để xác định.
Phóng viên:
Luật Đất đai năm 2024 quy định về giao đất sử dụng cho mục đích tôn giáo thế nào? Quy định này có khác so với quy định của Luật Đất đai năm 2013?
Bà Nguyễn Thị Định:
Điều 213 của Luật quy định: (1) Đất tôn giáo bao gồm đất xây dựng cơ sở tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và công trình tôn giáo hợp pháp khác; (2) Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với đất xây dựng cơ sở tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; (3) Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh căn cứ nhu cầu thực tế về hoạt động tôn giáo và khả năng quỹ đất của địa phương để quy định hạn mức và quyết định diện tích đất giao cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trên địa bàn tỉnh.
Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai năm 2024 thì Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để xây dựng cơ sở tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Quy định này của Luật Đất đai năm 2024 đã thay đổi so với quy định của Luật Đất đai năm 2013. Theo quy định tại khoản 2 Điều 159 của Luật Đất đai năm 2013 thì “Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo” và đất sử dụng cho mục đích tôn giáo được Nhà nước giao chưa có quy định về hạn mức; đất này không thu tiền sử dụng đất, không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Như vậy, quy định giao đất để sử dụng cho mục đích tôn giáo giữa Luật Đất đai năm 2024 và Luật Đất đai năm 2013 đã khác nhau về đối tượng được giao.
Phóng viên:
Đất sử dụng cho mục đích tôn giáo theo quy định tại khoản 2 Điều 213 có được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất không?
Bà Nguyễn Thị Định:
Cũng như Luật Đất đai năm 2013, Điều 32 của Luật Đất đai năm 2024 quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 26 và Điều 31 của Luật trong đó có quy định: “… đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, Điều 45 của Luật Đất đai năm 2024 cũng quy định về các trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất “Tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc,… mà pháp luật không cho phép nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất”.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn bà đã trả lời phỏng vấn!
Người thực hiện: Thảo Nguyên