Tết trong hoàng cung triều Nguyễn xưa có gì đặc biệt?
Ngày đăng: 22/02/2018Đối với người Việt Nam, mùa xuân là mùa của các lễ tiết, hội hè; khởi đầu bằng các hoạt động đón Tết Nguyên Đán, sau đó là các lễ hội kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch.
Về các hoạt động lễ hội thì trong chốn cung đình nhà Nguyễn thời xưa ở Huế có những đặc trưng riêng do các lễ tiết chính đều được quy định chặt chẽ, được nâng lên thành điển lệ. Chính vì vậy, phần lễ bao giờ cũng chiếm phần chính, phần hội đôi khi lại mờ nhạt.
Theo Tiến sĩ Phan Thanh Hải - Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, thời Nguyễn các hoạt động lễ tiết trước và sau Tết Nguyên đán luôn được tổ chức rất trang trọng và chu đáo. Nhìn chung, lễ tiết của triều Nguyễn gồm 2 phần, trước và sau Tết.
Nghi lễ trước Tết của vua quan nhà Nguyễn có gì?
Nghi lễ đầu tiên vua quan nhà Nguyễn tổ chức trước Tết là lễ Ban sóc hay còn được hiểu là Lễ Ban lịch năm mới. Nghi lễ này được tổ chức vào ngày mùng 1/12 âm lịch hàng năm. Vào ngày này, Khâm Thiên Giám đặt triều nghi và dâng lịch của năm sau đã được soạn xong.
Sau đó, Nội Các tuyên chỉ của nhà vua ban lịch cho bách quan và các địa phương. Các quan làm Lễ Tạ ơn rồi về nhận lịch tại viện Đãi Lậu. Các địa phương thì đến nhận lịch tại hành cung của tỉnh.
Sau Lễ Ban sóc là Lễ Tiến xuân. Đây là nghi lễ quan trọng được tổ chức vào tiết Lập xuân. Hàng năm, sau ngày Đông chí, gặp ngày Thìn, hai cơ quan là Khâm Thiên giám và Võ khố sẽ lấy nước và đất ở phương thần Tuế đất, làm ra 3 con trâu đất và 3 vị Mang thần (thần chăn trâu với hình tượng đứa bé).
Thân trâu đất cao 4 thước, dài 8 thước tượng trưng cho 4 mùa và 8 tiết, đuôi dài 1 thước 2 tấc để tượng trưng 12 tháng. Mang thần cao 3 thước, 6 tấc, 5 phân để tượng trưng 365 ngày; cái roi làm bằng cành liễu, dài 2 thước 4 tấc để tượng trưng 24 khí trong năm.
Trước tiết lập xuân, phủ Thừa Thiên (đất tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay) sẽ cho đặt đàn tế. Binh dịch được cử đến ty Võ Khố nhận lĩnh các án để trâu đất và Mang thần khiêng về phủ thự chuẩn bị. Sáng sớm ngày Lập xuân, các quan đại thần mặc triều phục rước trâu đất và Mang thần với đủ nghi trượng, tàn, lọng cùng nhã nhạc, đi vào Hoàng Thành đứng đợi.
Đến giờ, Nội Giám tiếp nhận tiến lên nhà vua. Xong việc, các quan đều lui ra. Quan phủ Thừa Thiên về phủ thự đưa trâu đất ra đánh 3 roi để tỏ ý khuyên việc cày cấy, khuyến khích nông nghiệp. Hàng năm làm lễ Tiến xuân xong, cứ bưng trâu đất và Mang thần lần trước ra giao Võ khố nhận lưu trữ.
Vào hạ tuần tháng Chạp (thường là vào ngày 20/12) triều đình tổ chức lễ Phất Thức, tức là lễ quét dọn. Vào ngày này, các quan hàm nhất nhị phẩm trở lên cùng các nhân viên của Nội Các, Cơ Mật Viện mặc thường triều đến chầu tại điện Cần Chánh.
Tại đây có 6 chiếc tủ gỗ tinh xảo chứa các ấn vàng, ấn ngọc của vương triều. Khi nhà vua ra ngự giá, các tủ chứa ấn đều mở cửa. Các quan lấy nước sông Hương cho vào một bình đầy hoa thơm sau đó lau ấn bằng khăn màu đỏ. Ấn rửa xong được vào tủ và khóa lại, niêm ngoài hai chữ “Hoàng phong”. Sau lễ này, vua và các quan nghỉ việc không dùng ấn nữa. Cho đến đầu năm mới, sau lễ “khai ấn”, các công việc mới tiếp tục trở lại.
Lễ Cáp hưởng tức là lễ mời các vị tiên đế về ăn Tết. Vào ngày 22 tháng chạp, nhà vua ngự ra Thái Miếu hoặc Thế Miếu làm chủ lễ. Cũng từ ngày này, vua sai các thân công, hoàng tử hoặc các quan đại thần thay mặt mình đi tế cúng ở các lăng tẩm, đền miếu, chùa quán ở kinh đô.
Đến ngày 30 tháng Chạp, vua ngự ra điện Thái Hòa làm lễ “Thướng tiêu” (dựng cây nêu ngày Tết). Thời Nguyễn, cây nêu dùng bằng cây tre để nguyên một chùm lá ở phần ngọn. Nhà vua chỉ huy việc dựng nêu ở điện Thái Hòa, còn thân công, hoàng tử, đại thần lo việc dựng nêu ở các miếu điện, đền thờ tại kinh đô. Sau khi nhà vua làm lễ dựng nêu xong thì người dân mới được dựng nêu tại nhà mình.
Nhiều nghi lễ quan trọng trong và sau Tết
Nghi lễ quan trọng nhất trong dịp Tết ở chốn cung đình đó chính là lễ mừng Tết nhà vua và các thành viên trong hoàng gia. Lễ mừng nhà vua được tổ chức như một lễ đại triều, có sự tham dự của bách quan văn võ và bô lão đại diện của địa phương.
Sáng mồng 1, tất cả những ai tham dự đều phải mặc lễ phục. Thân công đứng hai hàng bên trong điện Thái Hòa, quan văn võ từ tam phẩm trở lên đứng hai hàng trên tầng sân rồng thứ nhất theo phẩm sơn (tả văn, hữu võ); tầng sân dưới thì dành cho các bô lão, ngoài nữa là binh lính, voi ngựa.
Nội dung chủ yếu của lễ là đọc biểu mừng nhà vua của bách quan và các địa phương. Sau lễ mừng Tết, nhà vua thường ban yến tiệc cho những người tham dự. Suốt cả buổi lễ, nhã nhạc liên tục tấu lên các bài có chữ Bình (Lý bình, Túc bình, Khánh bình, Di bình và Hòa bình).
Ngoài lễ mừng Tết vua còn có lễ mừng Tết Thái hậu, lễ mừng Tết Hoàng Thái phi, lễ mừng Hoàng thái tử. Riêng lễ mừng Tết Hoàng Thái hậu, do các vua Nguyễn đều đề cao chữ hiếu nên trong ngày Tết nghi lễ này được thực hiện rất trang trọng tại cung Diên Thọ - nơi Thái hậu ở, sinh hoạt.
Sau các lễ mừng của ngày mồng 1, ngày mồng 2, nhà vua cùng thân công vào bái lạy tại điện Phụng Tiên - nơi thờ tất cả các vua Nguyễn đời trước.
Ngày mồng 3 thì vua và bách quan đều đi thăm thầy dạy, sư trưởng của mình; ngày mồng 5 đi du xuân, thăm viếng lăng tẩm, chùa đền bên ngoài Kinh thành; ngày mồng 7 làm lễ Khai hạ (hạ nêu), ngày này các viên quan giữ ấn tín làm lễ Khai ấn, mở hòm ấn tượng trưng năm làm việc mới bắt đầu.
Ngoài những nghi lễ nói trên, ngày Tết trong Hoàng cung còn nhiều nghi lễ khác như lễ tế hưởng ở các miếu được thực hiện trang trọng khi vua làm chủ lễ tế ở Thái Miếu hoặc Thế Miếu; các công thần tế lễ ở các miếu còn lại. Lễ tế cờ, tức tổ chức lễ xuất quân đầu năm có bắn 3 tiếng súng to. Người ta cho rằng tiếng súng thần công bắn vào dịp tế thần Đạo kỳ có nghĩa đuổi tà ma, ác quỷ.
Vua Nguyễn du xuân thế nào?
Việc du xuân đầu năm mới vốn là truyền thống của người Việt. Thường thì các vua Nguyễn bắt đầu du xuân từ ngày 5/1 âm lịch. Tuy nhiên, việc này không ghi thành điển lễ. Chỉ từ triều Đồng Khánh về sau, các vua nhà Nguyễn mới có lệ “du xuân” ngay trong ngày mồng Một Tết.
Tiến sĩ Phan Thanh Hải - Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế cho hay, triều vua Đồng Khánh, sau lễ khánh hạ ở điện Thái Hòa và điện Cần Chánh, đúng vào giờ tốt trong ngày (đã được Khâm Thiên Giám xem quẻ chọn giờ trước), nhà vua lên kiệu cho quân lính cáng đi. Các quan văn, võ cùng một số lính tráng mang gươm giáo, cờ quạt theo sau hộ giá.
Cứ vậy, vua được cáng đi một vòng quanh kinh thành và một vài nơi vua thích để vừa du xuân lại vừa xem dân tình ăn tết ra sao.
Ngoài ra, vào mùa Xuân, triều đình nhà Nguyễn cũng tổ chức nhiều lễ hội quan trọng. Có thể kể ra một vài lễ hội như:
Lễ tế Nam Giao: Là lễ tế quan trọng nhất, đứng đầu trong bậc Đại tự. Không gian tổ chức lễ tế diễn ra từ Hoàng cung đến tận đàn Nam Giao ở ngoại ô phía nam Kinh thành và kéo dài trong suốt mấy ngày liền.
Lễ tết Nam Giao thời triều đình nhà Nguyễn xưa hiện đã được phục dựng
Tế Nam giao dưới thời Nguyễn là hình thức hợp tế (tế tự chung cả Trời-Đất và các vị thần linh) và thường được tổ chức vào tháng trọng xuân hàng năm (tháng 2 âm lịch, nhưng từ năm 1839-1848 lại tế vào tháng quý xuân-tháng 3 âm lịch). Từ thời Thành Thái trở đi, lễ tế Nam Giao được quy định 3 năm tổ chức một lần do quá tốn kém. Lực lượng tham gia lễ tế Nam Giao thường gồm hàng ngàn người cộng với sự tham gia đông đảo của nhân dân các làng xã dọc theo tuyến đường từ Kinh thành lên đàn tế.
Lễ tế Xã Tắc: Cùng với lễ tế Nam Giao, tế Xã Tắc là một trong những tế lễ lớn và có tầm quan trọng trong việc cai trị nước của nền quân chủ phong kiến. Đây là nghi lễ vừa mang ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng vừa mang màu sắc chính trị. Việc cho lập đàn Xã Tắc và tế Xã Tắc ở kinh đô và hầu khắp các địa phương trong nước là để đáp ứng nhu cầu quan trọng, một nhu cầu về mặt tinh thần không thể thiếu của toàn dân thời bấy giờ.
Lễ tế Xã Tắc được tổ chức mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu (thực ra, trừ lễ tế Nam Giao, còn từ lễ tế Xã Tắc đến các lễ tế ở bậc Trung tự và Quần tự đều được tổ chức 2 lần vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch ). Khi tổ chức tế, có khi nhà vua đích thân làm chủ tế, cũng có khi cử quan khâm mạng đại thần thay thế.
Lễ cày ruộng Tịch Điền: Đây là lễ cày ruộng đầu năm mới của nhà vua, được tổ chức tại ruộng Tịch Điền tại Kinh đô (phía bắc bên trong Kinh thành, gần đàn Tiên Nông). Lễ cày ruộng được tổ chức cũng vào tháng 2 âm lịch.
Nhà vua cùng các quan đến khu ruộng Tịch Điền. Trước đó, từ sáng sớm, quan Phủ doãn phủ Thừa Thiên phải đến tế tại đàn Tiên Nông.
Sau khi nhà vua đích thân cày 6 luống đầu tiên, ngài sẽ ra ngự tại điện Quan Canh (trong vườn Thường Mậu) để xem các quan cày ruộng.
Lần lượt các quan theo thứ bậc sẽ cày các luống tiếp theo. Đây là nghi lễ đầu năm của triều đình nhằm khuyến khích toàn thể nhân dân chăm lo việc nông tang.
Có thể nói đây là một lễ hội cung đình rất giàu chất nhân văn, xuất phát từ các yêu cầu thực tế của một đất nước nông nghiệp như nước ta. Đáng tiếc là đến nay, khu ruộng Tịch Điền, vườn Thường Mậu và đàn Tiên Nông đều không còn!
Theo vtc.vn