Tượng đài đức Thánh Trần trên núi An Phụ -Kinh Môn -Hải Dương
Ngày đăng: 04/09/2020
Tượng đài Trần Hưng Đạo đặt ở vị trí bằng 2/3 núi An Phụ nhìn ra hướng biển đông như muốn giữ yên bờ cõi, tiền án nhìn ra núi Ông Voi Kiến An - Hải Phòng, hậu chẩm là đền Cao thờ Đức cha Trần Liễu, (cạnh đó là chùa Tường Vân và đền Mẫu, tả thành Long là sông Kinh Thầy uốn lượn, hữu bạch hổ là núi Đông Triều hùng vĩ).
Còn hơn một tháng nữa là ngày giỗ 720 năm ngày mất Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (20/8/1300-20/8/2020) và kỷ niệm 22 năm Khánh thành tượng đài Đức Thánh Trần ở núi An Phụ (Kinh Môn - Hải Dương).
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (6/1/1229-20/8/1300) là vị anh hùng kiệt xuất trong Lich sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ông đã có công lao to lớn trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Ông còn là tác giả của áng thiên cổ hùng văn “Hịch tướng sĩ “ và cuốn ”Binh thư yếu lược“. Nhân dân ta từ bao đời nay đã luôn tôn thờ, ghi nhớ công ơn của Hưng Đao Vương. Hội đền Kiếp Bạc (Chí Linh- Hải Dương) hàng năm tổ chức giỗ ông đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân (Tháng tám giỗ cha).
Năm nay, nhân dịp chuẩn bị cho ngày giỗ của ông, tôi xin giới thiệu một công trình được xây dựng vào năm 1993, mà những tình tiết cụ thể trong quá trình xây dựng và những thâm cung bí sử hiếm có người biết được: Tượng đài đức Thánh Trần ở núi An Phụ-Kinh Môn- Hải Dương.
Pho tượng này được xây dựng vào năm 1993, lúc bấy giờ ông Phạm Thọ, Bí thư tỉnh ủy, là người khởi xướng chỉ đao, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là người đặt phiến đá đầu tiên.
Tôi chỉ là người tiếp nối công việc của những người tiền nhiệm, vì nhiều lý do, đặc biệt không thu xếp được vốn nên từ 1993- 1996 dự án không chuyển động. Vấn đề đặt ra là phải quyết tâm chỉ đạo làm sao hoàn thành vào trước năm 1999 để kịp thời tổ chức giỗ Đức Thánh vào dịp kỷ niệm 700 ngày mất vào 20/8/ 2000 mà thế hệ chúng ta có may mắn được sống và chứng kiến sự kiện lịch sử đó.
Ngay từ đầu năm 1997 chúng tôi đã phải tập trung quyết liệt, “kịp tiến độ, nhưng không được để lỗi và phải an toàn tuyệt đối”. Đó là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt. Công trình bằng đá, lại đặt treo leo trên đỉnh núi cao, đường dẫn dài và lởm khởm, chuyên chở vật liệu cho công trình rất khó khăn, từ các nhà thiết kế, điêu khắc, hội họa. Các kiến trúc sư, thợ đá, thợ gốm, thợ xây dựng, phải ngày đêm suy nghĩ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và chúng tôi đã thành công, khánh thành đúng vào ngày giỗ của Ngài 20-8-1998, trước thời hạn cho phép 8 tháng.
Thật vui mừng khôn xiết.
Sau khi hoàn thành bước một, tác giả và thợ xây dựng, phóng tỳ lệ lên bằng tượng thật có chiều cao 9,1m, bệ 3m. Tất cả mọi tính toán từ phác thảo nhỏ đến tượng thật phải phóng to gấp bốn lần, vừa tính toán vừa điều chỉnh làm sao phải có được một tác phẩm có tính nghệ thuật cao, bền vững, phù hợp với cảnh quan, môi trường đia chất, gắn kết với cảnh quan thiên nhiên rừng núi cao.
Tượng làm bằng chất liệu đá núi Nhồi Thanh Hoá, kết cấu đông đặc, không ran nứt, có độ dẻo dai, không có gân, không có thớ, mịn và rắn. Ở giữa có một trụ bê tông cốt thép, 65 phiến đá được chia khuôn phù hợp, ghép thành một khối đều được níu vào cốt thép, 11 lớp đá chồng lên nhau cũng phải níu phiến nọ vào phiến kia, tạo thành một khối vững chắc. Có một đường dây dẫn bằng một hộp thép (ẩn trong khối đá) kéo dài từ đỉnh đầu pho tượng kéo xuống chân núi dài 1250m để chống sét, bảo đảm tuyệt đối an toàn trong mùa mưa bão.
Các lãnh đạo tỉnh Hải Dương khảo sát địa hình để dựng tượng
Gương mặt ngài có hình chữ vương, toát lên phong thái quyền quý, truyền thống gia tộc, tư chất thông minh, tài trí, văn võ song toàn. Gương mặt đầy đặn, nho nhã, thấy rõ tinh thần của một vị tướng từng trải, nhân Đức và cương nghị, Dũng cảm và Dầy dạn trận mạc. Thân tượng ung dụng tự tại, khối ngực chắc khỏe, tay phải cầm binh thư đầy tự tin, tay trái ghì đốc kiếm, như muốn cảnh giác với các thế lực ngoại bang, chân đạp lên sóng dữ, thể hiện sức mạnh và quyền uy.
Phải làm cho ý tưởng của tác giả truyền cảm hứng cho người thợ đá, biến khối đá vô tri vô giác thành một linh hồn sống, phải làm cho người thợ đá cảm nhận và rung động như tâm hồn tác giả đã cảm tác, thật không hề đơn giản.
Nếu pho tượng là công trình nghệ thuật kiệt tác thì bức phù điêu phải diễn tả được toàn bộ Huyền thoại của cả triều Trần, là một liên kết với pho tượng không thể tách rời, thành một khu di tích có tổng thể hoàn chỉnh, bức phù điêu dài 145m cao nhất 2,7m thấp nhất 2,1m, lớn như vậy đòi hỏi sự kỳ công về nhiều mặt, từ lựa chọn nội dung, kỹ thuật, nghệ thuật điêu khắc... đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao. Bức phù điêu nung ở làng nghề gốm Cậy- Lòng Xuyên- Bình Giang- Hải Dương.
Từ hình ảnh hội nghị Bình Than, hội thề Lũng Nhai, hội nghị Diên Hồng, Hưng Đạo Vương tắm cho tướng quân Trần Quang Khải, Thoát Hoan bại trận chui ống đồng, rồi hình ảnh mừng chiến thắng, muôn dân vui khúc khái hoàn... đều được thể hiện trên bức phù điêu rộng 270 m2.
Tượng đài Trần Hưng Đạo đặt ở vị trí bằng 2/3 núi An Phụ nhìn ra hướng biển đông như muốn giữ yên bờ cõi, tiền án nhìn ra núi Ông Voi Kiến An - Hải Phòng, hậu chẩm là đền Cao thờ Đức cha Trần Liễu, (cạnh đó là chùa Tường Vân và đền Mẫu, tả thành Long là sông Kinh Thầy uốn lượn, hữu bạch hổ là núi Đông Triều hùng vĩ).An Phụ là dãy núi cuối cùng của Đông Triều tiếp giáp với đồng bằng sông Hồng phì nhiêu trù Phú.
Khách hành hương từ các hướng, các ngả đường đều nhìn thấy rõ, từ đường số 5 (phía Nam), đường 18 (phía Bắc), đường 183 (phía Tây), thành phố cảng Hải Phòng (phía Đông), đều nhìn thấy rõ. Thật là vị trí đắc địa hiếm có trên đất nước ta.
Từ 22 năm nay, ngoài khu di tích Kiếp Bạc (Hải Dương), Tức Mặc (Nam Đinh), An Cư (Ninh Bình) thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, chúng ta có thêm một công trình văn hóa vừa mạng ý nghĩa lịch sử vừa mang giá trị tâm linh sâu sắc, một chứng tích của thời kỳ đổi mới để lại cho muôn đời con cháu mai sau tiếp nối dòng chảy muôn đời của lịch sử nước nhà.
Nguyễn Hữu Oanh (theoVanhien.vn)