Những nội dung cơ bản của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2017
Ngày đăng: 24/01/2018
Tại Kỳ họp thứ 2, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua 15 luật, trong đó có Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Trang Thông tin điện tử Ban Tôn giáo Chính phủ xin giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2017 gồm có 09 chương với 68 điều cụ thể như sau:

1. Những quy định chung (Chương I)

– Về  phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng (Điều 1), Luật quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

– Về giải thích từ ngữ (Điều 2), để có cách hiểu chung thống nhất về các quy định của Luật, Luật đã giải thích 16 từ ngữ được sử dụng nhiều lần. Trong 16 từ ngữ được giải thích này có 08 từ ngữ được kế thừa từ Pháp lệnh đó là các từ ngữ: “Hoạt động tín ngưỡng”,“Cơ sở tín ngưỡng”, “Tín đồ”, “ Nhà tu hành”, “Chức sắc”, “Hoạt động tôn giáo”, “Tổ chức tôn giáo”, “Cơ sở tôn giáo”. Đồng thời bổ sung 08 từ ngữ mới đó là: “Tín ngưỡng”, “Lễ hội tín ngưỡng”, “Tôn giáo”, “Chức việc”, “Sinh hoạt tôn giáo”, “Tổ chức tôn giáo trực thuộc”, “Địa điểm hợp pháp”, “Người đại diện”. 

– Trên cơ sở kế thừa quy định của Pháp lệnh, Luật quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo tại Điều 3 và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Điều 4.

– Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 5), trên cơ sở kế thừa các quy định về hành vi không được làm của Pháp lệnh, Điều 5 của Luật đã quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Việc đưa ra các hành vi bị nghiêm cấm để phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 gồm: (1). Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. (2). Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. (3). Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo. (4). Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. (5). Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.

2. Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo (Chương II)

– Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người (Điều 6), cụ thể hóa quy định tại Điều 24 Hiến pháp năm 2013 “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”, khoản 1 Điều 6 Luật quy định chủ thể thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác. Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết việc bảo đảm thực hiện các quyền của các đối tượng này.

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của tất cả mọi người và quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi.

– Về quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 7) Luật quy định như sau: (1). Hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và văn bản có nội dung tương tự của tổ chức tôn giáo. (2). Tổ chức sinh hoạt tôn giáo. (3). Xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tôn giáo. (4). Sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo. (5). Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo. (6). Nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho. (7). Các quyền khác theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan.

– Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam (Điều 8), Luật quy định người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra Luật cũng quy định chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.

– Về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 9) Luật quy định như sau: (1). Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. (2). Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ, người tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật.

3. Hoạt động tín ngưỡng (Chương III)

– Về nguyên tắc tổ chức hoạt động tín ngưỡng (Điều 10), Luật quy định hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.

– Về người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng (Điều 11), nhằm tạo điều kiện cho cơ sở tín ngưỡng hoạt động có hiệu quả, Luật quy định cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng như đăng ký hoạt động tín ngưỡng, thông báo việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ; thông báo về tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi; quản lý và sử dụng khoản thu đúng mục đích, công khai, minh bạch. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy tín trong cộng đồng dân cư; việc bầu, cử người đại diện hoặc thành viên ban quản lý do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử. Căn cứ vào kết quả bầu, cử, Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản công nhận người đại diện hoặc thành viên ban quản lý trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bầu cử. Đây là một trong những quy định mới của Luật so với Pháp lệnh.

– Bên cạnh nội dung mới nêu trên, hoạt động tín ngưỡng còn có một số quy định mới được đánh giá là tiến bộ, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính hiện hành như quy định về đăng ký hoạt động tín ngưỡng (Điều 12), theo đó việc đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm của cơ sở tín ngưỡng phải thực hiện đăng ký chậm nhất là 30 ngày trước ngày cơ sở tín ngưỡng bắt đầu hoạt động tín ngưỡng, trừ trường hợp tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi, các hoạt động tín ngưỡng không có trong văn bản đăng ký đã được chấp thuận thì phải đăng ký bổ sung theo quy định tại Ủy ban nhân dân cấp xã chậm nhất 20 ngày trước ngày diễn ra hoạt động tín ngưỡng.

– Về tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi (Điều 14), Luật quy định các  lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi thay vì phải xin phép thì nay chỉ phải đăng ký. Ngoài ra Luật quy định về tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ (Điều 13); quản lý, sử dụng khoản thu từ việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng (Điều 15).

4. Đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, đăng ký hoạt động tôn giáo (Chương IV)

– Về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung (Điều 16), để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 16 của Luật đã quy định về đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. So với Pháp lệnh và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh (sau đây viết tắt là Nghị định số 92/2012/NĐ-CP) thì quy định này hiện nay có điểm mới như: chủ thể được thực hiện quyền sinh hoạt tôn giáo tập trung không chỉ dành cho tín đồ thuộc tổ chức tôn giáo, người theo tôn giáo thuộc tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo mà nhóm người theo tôn giáo nhưng chưa có tổ chức cũng được thực hiện; Nghị định số 92/2012/NĐ-CP quy định đăng ký sinh hoạt tôn giáo là mốc đầu tiên của một tổ chức, sau thời hạn nhất định kể từ ngày được sự chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo, tổ chức có thể thực hiện các bước tiếp theo như đăng ký hoạt động tôn giáo sau đó xin công nhận tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, Luật hiện nay không lấy mốc đăng ký sinh hoạt tôn giáo làm tiền đề để thực hiện các bước tiếp theo như đăng ký hoạt động tôn giáo và tiến tới công nhận về tổ chức mà xem đăng ký sinh hoạt chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của những người chưa có tổ chức tôn giáo.

– Về điều kiện để tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo (Điều 18), Luật quy định để được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức phải đáp ứng đủ các điều kiện đó là: có giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật; tên của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc; người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở; nội dung hoạt động tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại Điều 5 của Luật.

Như vậy, một tổ chức đồng thời phải đáp ứng được tất cả các điều kiện trên và nếu có nhu cầu thì có thể đăng ký hoạt động tôn giáo. Các điều kiện này được Luật quy định nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận diện một tổ chức khi đăng ký hoạt động tôn giáo, mặt khác cũng loại bỏ được những nhóm người, tổ chức lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đăng ký hoạt động không vì mục đích tôn giáo.

– Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo (Điều 19), các khoản 1, 2 Điều 19 của Luật đã quy định trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động tôn giáo, theo đó tổ chức có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 18 của Luật gửi hồ sơ đăng ký hoạt động tôn giáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật. Về thẩm quyền, theo quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật, hiện có hai cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Tùy thuộc vào phạm vi hoạt động của tổ chức, nếu tổ chức có địa bàn hoạt động ở một tỉnh thì cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cấp đăng ký; nếu tổ chức có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Luật cũng quy định thời hạn cấp đăng ký của cả hai cơ quan là 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, trường hợp từ chối cấp chứng nhận đăng ký phải nêu rõ lý do.

– Về hoạt động của tổ chức sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo (Điều 20),   Luật quy định tổ chức sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được thực hiện các hoạt động sau đây: tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý; bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc; sửa chữa, cải tạo trụ sở; tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo; tổ chức đại hội thông qua hiến chương. Đây là những quyền cơ bản đầu tiên mà tổ chức được thực hiện sau khi được cấp đăng ký hoạt động, Luật cũng quy định khi thực hiện hoạt động nêu trên, tổ chức phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

5. Tổ chức tôn giáo (Chương V)

5.1. Công nhận tổ chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc (Mục 1)

– Về điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo (Điều 21), điều kiện đầu tiên là tổ chức đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động tôn giáo hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 05 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Thời gian 05 năm là thời hạn để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét tổ chức đó có đủ khả năng để tồn tại, phát triển, đủ khả năng về nhân vật lực, đặc biệt hoạt động không vi phạm các quy định của pháp luật. Theo quy định tại Nghị định số 92/2012/NĐ-CP thì thời gian tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo là 03 năm kể từ ngày đăng ký hoạt động tôn giáo. Điều kiện thứ hai là tổ chức phải có hiến chương theo quy định tại Điều 23 của Luật, đây là điều kiện rất quan trọng, bởi thông qua hiến chương, điều lệ của tổ chức có thể biết được mục đích, đường hướng hoạt động, cơ cấu tổ chức… của tổ chức ấy, đặc biệt có thể biết được tôn chỉ, mục đích của tổ chức có trái với quy định của pháp luật không. Ngoài ra, Luật còn quy định một số điều kiện để được công nhận tổ chức tôn giáo như sau: người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; có cơ cấu tổ chức theo hiến chương; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy, để được công nhận tổ chức tôn giáo, tổ chức phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên.   

– Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo (Điều 22) các khoản 1, 2 Điều 22 của Luật đã quy định trình tự, hồ sơ đề nghị công nhận tổ chức tôn giáo, theo đó tổ chức đủ điều kiện theo quy định tại Điều 21 của Luật gửi hồ sơ đề nghị công nhận tổ chức tôn giáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 22 của Luật. Về thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo, Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận tổ chức tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở một tỉnh, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương quyết định công nhận tổ chức tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh,  trong cả hai trường hợp, thời hạn là 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, ngoài ra Luật quy định trường hợp không công nhận phải nêu rõ lý do. Pháp lệnh quy định thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo có hoạt động ở nhiều tỉnh thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, để giảm tải công việc cho Thủ tướng Chính phủ, nội dung này được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.

– Luật quy định các nội dung về hiến chương của tổ chức tôn giáo tại Điều 23; sửa đổi hiến chương tại Điều 24; tên của tổ chức tôn giáo tại Điều 25 và thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo tại Điều 26.

– Bên cạnh các quy định về điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo, Điều 27 của Luật cũng có các quy định cho tổ chức tôn giáo khi đã được thành lập, sau một thời gian hoạt động có sự phát triển về số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành có thể thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc, đây cũng là một quy luật tất yếu của một tổ chức. Theo đó, Điều 28 của Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: hiến chương của tổ chức tôn giáo có quy định về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc; hoạt động của tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi chia, tách, sáp nhập, hợp nhất không thuộc trường hợp về các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 5 của Luật; có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở. Ngoài ra, Luật còn quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc tại Điều 29.

– Về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, Điều 30 của Luật quy định: tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; tổ chức tôn giáo đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh, đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh khi có cơ cấu tổ chức theo hiến chương, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập; Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục cấp đăng ký pháp nhân đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc.

– Về giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 31), Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc giải thể trong trường hợp sau đây: theo quy định của hiến chương; không hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất; ngừng hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm liên tục; hết thời hạn bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ. Ngoài ra, Luật còn quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo có quyền giải thể tổ chức tôn giáo và trước khi giải thể, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài sản. Tài sản của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.

5.2. Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành (Mục 2)

– Về phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc (Điều 32), trong quá trình hoạt động, cùng với việc phát triển tín đồ, đội ngũ chức sắc của các tổ chức tôn giáo cũng không ngừng gia tăng. Xác định đây là công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo, vì vậy Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thực hiện việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử theo hiến chương của tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, Luật cũng quy định người được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Điều 51 của Luật.

– Về thông báo người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc (Điều 33), kế thừa các quy định của Pháp lệnh, Luật quy định tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về người được phong phẩm hoặc suy cử làm hòa thượng, thượng tọa, ni trưởng, ni sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; mục sư của các tổ chức Tin lành; phối sư trở lên của các Hội thánh Cao đài; giảng sư trở lên của Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam và các phẩm vị tương đương của tổ chức tôn giáo khác chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử. Đối với các trường hợp phong phẩm hoặc suy cử chức sắc không thuộc các trường hợp nêu trên, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi chức sắc cư trú và hoạt động tôn giáo chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, họ và tên, phẩm vị, địa bàn hoạt động, tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo kèm theo sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp của chức sắc. Trường hợp người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc không đáp ứng quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tôn giáo hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc và có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33 của Luật.

– Về đăng ký người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc (Điều 34), Luật quy định thành viên ban lãnh đạo tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động trong nhiều tỉnh, người đứng đầu tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động trong nhiều tỉnh, người đứng đầu cơ sở đào tạo tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Ngoài các đối tượng nêu trên, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi thực hiện việc bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi chức việc cư trú và hoạt động tôn giáo. Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo trước khi thực hiện việc bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật. Theo đó, Luật quy định hồ sơ đăng ký gồm: (1). Văn bản đăng ký nêu rõ họ và tên người được dự kiến bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; phẩm vị, chức vụ, địa bàn phụ trách trước và sau khi được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử. (2). Sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp của người được dự kiến bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; (3). Bản tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người được dự kiến bổ nhiệm, bầu cử, suy cử.

Luật cũng quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 34 của Luật có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 34 và khoản 3 Điều 19 của Luật chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày bổ nhiệm, bầu cử, suy cử. Ngoài ra đối với người dự kiến lãnh đạo tổ chức quy định tại các điều 19, 22, 29 và 38 của Luật này sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chỉ thực hiện thông báo kết quả về người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử theo quy định tại khoản 6 Điều 34 của Luật.

– Về thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành (Điều 35), nếu Pháp lệnh quy định việc thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành phải thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi đi và đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi đến thì Luật chỉ quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi đi và nơi đến chậm nhất là 20 ngày, đồng thời văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức thông báo, họ và tên, phẩm vị, chức vụ của người được thuyên chuyển, lý do thuyên chuyển, địa bàn hoạt động tôn giáo trước khi thuyên chuyển, địa bàn hoạt động sau khi được thuyên chuyển đến.

Luật cũng quy định trước khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người đang bị buộc tội hoặc chưa được xóa án tích, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến thuyên chuyển đến. Văn bản đăng ký nêu rõ tên tổ chức đăng ký, họ và tên, phẩm vị, chức vụ của người được thuyên chuyển, lý do thuyên chuyển, địa bàn hoạt động tôn giáo trước khi thuyên chuyển, địa bàn hoạt động sau khi được thuyên chuyển đến. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.

– Về cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc (Điều 36), kế thừa các quy định của Pháp lệnh, Luật quy định về cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc như sau: (1). Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc theo hiến chương của tổ chức. (2). Chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày có văn bản về việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33, khoản 1 và khoản 2 Điều 34 của Luật này. Văn bản thông báo nêu rõ họ và tên, phẩm vị, chức vụ của người bị cách chức, bãi nhiệm; lý do cách chức, bãi nhiệm kèm theo văn bản của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc về việc cách chức, bãi nhiệm. (3). Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 điều này đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật này.

5.3. Cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng tôn giáo (Mục 3)

– Về điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo (Điều 37), để phát triển giáo hội, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chức sắc, nhà tu hành của các tổ chức tôn giáo là cần thiết. Luật đã khẳng định tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, bên cạnh đó, Luật đưa ra các điều kiện cụ thể cho việc thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo như sau: có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo; có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo; có chương trình, nội dung đào tạo; có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo; có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo.

– Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo(Điều 38), Luật đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, quy định như vậy sẽ thuận tiện cho các tổ chức tôn giáo thực hiện khi văn bản có hiệu lực. Ngoài ra tại khoản 5 Điều 38 của Luật khẳng định cơ sở đào tạo tôn giáo không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, đây là nội dung mới, cụ thể so với quy định của Pháp lệnh. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo khi có nhu cầu thành lập cơ sở đào tạo.

– Về hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo (Điều 39), đây là một nội dung mới so với Pháp lệnh, theo đó Luật quy định như sau: (1). Chậm nhất là 20 ngày trước khi cơ sở đào tạo tôn giáo bắt đầu hoạt động, người đại diện cơ sở đào tạo tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo kèm theo văn bản thành lập, quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tuyển sinh, danh sách thành viên ban lãnh đạo, báo cáo về nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất để bảo đảm hoạt động. (2). Việc tổ chức đào tạo, tuyển sinh của cơ sở đào tạo tôn giáo thực hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tuyển sinh đã thông báo. (3). Cơ sở đào tạo tôn giáo khi sửa đổi quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tuyển sinh phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Văn bản đăng ký nêu rõ lý do, nội dung thay đổi kèm theo quy chế sửa đổi. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do. Cơ sở đào tạo tôn giáo được hoạt động theo quy chế sửa đổi sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. (4). Cơ sở đào tạo tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về kết quả đào tạo của từng khóa học với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc khóa học. Văn bản thông báo nêu rõ tên cơ sở đào tạo tôn giáo, khóa đào tạo, số học viên tốt nghiệp. (5). Việc theo học của người nước ngoài tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam thực hiện theo quy định tại Điều 49 của Luật.

– Luật quy định về hướng dẫn chương trình, nội dung giảng dạy môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam (Điều 40); mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo (Điều 41).

6. Hoạt động tôn giáo; hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo (Chương VI)

6.1. Hoạt động tôn giáo (Mục 1)

– Về thông báo danh mục hoạt động tôn giáo (Điều 43), ngoài các quy định về đăng ký hoạt động tôn giáo, Luật còn quy định về việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo, đây là quy định mới so với Pháp lệnh, theo đó tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày được công nhận, chấp thuận hoặc được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo theo quy định sau đây: tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở một xã gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp xã; tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều xã thuộc một huyện gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp huyện; tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều huyện thuộc một tỉnh gửi thông báo đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh; tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh gửi thông báo đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Luật cũng quy định văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức, tên các hoạt động tôn giáo, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động. Việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chỉ thực hiện một lần. Đối với hoạt động tôn giáo không có trong danh mục đã thông báo thì người đại diện tổ chức có trách nhiệm thông báo bổ sung theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 43 của Luật chậm nhất là 20 ngày trước khi diễn ra hoạt động.

– Về hội nghị của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc (Điều 44), một trong các quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đó là được tổ chức hội nghị. Tuy nhiên, trước khi tổ chức hội nghị thường niên phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo đó đối với hội nghị của tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động trong một huyện thì thẩm quyền chấp thuận thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; đối với hội nghị của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều huyện trong một tỉnh thì thẩm quyền chấp thuận thuộc cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng tôn giáo cấp tỉnh; đối với việc tổ chức hội nghị không thuộc 02 quy định nêu trên thì thẩm quyền chấp thuận thuộc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Đây là những quy định được sửa đổi so với Pháp lệnh. Ngoài ra, Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tổ chức hội nghị liên tôn giáo, hội nghị có yếu tố nước ngoài có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức; lý do tổ chức; dự kiến thành phần, số lượng người tham dự; nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

– Tương tự như quy định về hội nghị của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, Luật quy định các nội dung về đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tại Điều 45 và Cuộc lễ, giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp tại Điều 46.

6.2. Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài (Mục 2)

– Về sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam (Điều 47), thời gian gần đây, với xu thế giao lưu, hội nhập, nhiều người nước ngoài đến Việt Nam để học tập, công tác. Bên cạnh các công việc đó, họ còn có nhu cầu được thỏa mãn đức tin, được sinh hoạt tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo của Việt Nam hoặc tập trung thành nhóm để sinh hoạt. Nội dung này đã được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên Pháp lệnh chỉ cho phép họ được sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam, điều này đã hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài bởi lẽ có một số tôn giáo người nước ngoài tin theo chưa có ở Việt Nam, mặt khác nhiều cơ sở tôn giáo ở nước ta chật chội không đủ sức chứa, ngôn ngữ bất đồng cũng khiến cho việc thực hành các lễ nghi khó khăn, vì vậy để khắc phục những bất cập của Pháp lệnh, Luật quy định tại khoản 1 Điều 47 như sau: “Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt tôn giáo tập trung”. Như vậy, Cơ quan có thẩm quyền chấp thuận cho người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Hồ sơ gồm văn bản đề nghị nêu rõ họ và tên, quốc tịch, tôn giáo của người đại diện; lý do, thời gian, nội dung sinh hoạt, số lượng người tham gia, cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt; bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh việc cư trú hợp pháp tại Việt Nam của người đại diện; văn bản đồng ý của người đại diện cơ sở tôn giáo hoặc giấy tờ chứng minh có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung, trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

– Về hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam (Điều 48), Luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục các trường hợp khi mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo; tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo, theo đó, trường hợp mời vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo trong tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền chấp thuận trong 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, trường hợp hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh hoặc hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo thì cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có thẩm quyền chấp thuận trong 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, mọi trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

Ngoài các quy định trên, Điều 48 của Luật quy định nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của Luật đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do. Trong quá trình giảng đạo, chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo ở Việt Nam và tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam.

– Về người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam (Điều 49), bên cạnh việc được thực hiện các hoạt động tôn giáo, người nước ngoài còn được học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam, theo đó Luật quy định như sau: (1). Người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam phải là người cư trú hợp pháp ở Việt Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, tự nguyện đăng ký học và được cơ sở đào tạo tôn giáo gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. (2). Hồ sơ đề nghị gồm: Văn bản đề nghị nêu rõ tên cơ sở đào tạo tôn giáo; họ và tên, quốc tịch của người đăng ký học, khóa học, thời gian học; bản dịch hộ chiếu của người đăng ký học sang tiếng Việt có công chứng. (3). Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

– Về tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài (Điều 50), bên cạnh các hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo trong nước, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cũng có nhu cầu tham gia các hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài. Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Theo đó, hồ sơ đề nghị gồm: Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức, mục đích, chương trình, thời gian, địa điểm hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài; giấy mời hoặc văn bản chấp thuận tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo của tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Luật quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

– Về phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài (Điều 51), đây là một quy định mới, phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay ở nước ta cũng như việc đối xử tương ứng trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia. Luật quy định về phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài, đó là việc tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam hoặc tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho công dân Việt Nam ở Việt Nam. Tuy nhiên việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài phải được sự chấp thuận trước của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Người được đề nghị phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện như: phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được đề nghị phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị còn phải đáp ứng thêm các điều kiện: được đào tạo tôn giáo tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam; tuân thủ pháp luật Việt Nam.

Ngoài các quy định trên, Luật quy định công dân Việt Nam được tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử ở nước ngoài khi về Việt Nam làm chức sắc, chức việc thì tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc quản lý trực tiếp có trách nhiệm đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục chấp thuận, đăng ký việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài.

– Về hoạt động quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ (Điều 52), cũng như các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ bên cạnh các hoạt động tôn giáo trong nước còn có nhu cầu giao lưu, tham gia các hoạt động tôn giáo quốc tế, nội dung này từ Pháp lệnh đã có quy định. Trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh, Luật có những sửa đổi cho phù hợp với thực tế, theo đó quy định: Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo hiến chương của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam. Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia có liên quan.

– Về gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài (Điều 53) đây cũng là quy định mới của Luật so với Pháp lệnh. Luật quy định trước khi gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương và cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do. Hồ sơ đề nghị gồm: văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, mục đích, thời điểm gia nhập; tên, hiến chương, tôn chỉ, mục đích hoạt động, trụ sở chính của tổ chức tôn giáo nước ngoài; văn bản chấp thuận hoặc văn bản mời gia nhập của tổ chức tôn giáo nước ngoài. Luật cũng quy định khi chấm dứt tham gia tổ chức tôn giáo nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày chấm dứt. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, tên tổ chức tôn giáo nước ngoài đã gia nhập, lý do chấm dứt, thời điểm bắt đầu chấm dứt.

6.3. Hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo (Mục 3)

– Về hoạt động xuất bản, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm (Điều 54), Luật quy định tổ chức tôn giáo được thực hiện hoạt động xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của pháp luật về xuất bản và quy định khác của pháp luật.

– Về hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo (Điều 55), Luật quy định tổ chức tôn giáo được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan. Việc tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo tham gia các hoạt động này là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Những năm qua, các tổ chức tôn giáo đã tích cực tham gia bằng các việc làm thiết thực như tham gia thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội, ủng hộ đồng bào lũ lụt… Những hoạt động đó phần nào góp sức cùng Nhà nước giải quyết các khó khăn của xã hội. Hiện nay vấn đề về giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội được quy định rất cụ thể, chi tiết trong các văn bản pháp luật có liên quan từ điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoạt động,… Đây cũng là một trong những nội dung mới, mở rộng, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo nếu đủ điều kiện thực hiện theo quy định.

7. Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo (Chương VII)

– Về việc quản lý, sử dụng tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo (Điều 56), cũng như các tổ chức xã hội khác, cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có tài sản phục vụ cho hoạt động tôn giáo, vì vậy, Điều 56 Luật quy định: (1). Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo bao gồm tài sản được hình thành từ đóng góp của thành viên tổ chức; quyên góp, tặng cho của tổ chức, cá nhân hoặc các nguồn khác theo quy định của pháp luật. (2). Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật. (3). Cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo được hình thành theo tập quán, do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng. (4). Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn tài sản bằng quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan. (5). Chính phủ quy định chi tiết việc tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tiếp nhận và quản lý các khoản tài trợ của tổ chức, cá nhân nước ngoài; việc quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.

– Về đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo (Điều 57), Điều 159 Luật Đất đai năm 2013 quy định về đất cơ sở tôn giáo như sau: “Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo”. Về đất cơ sở tín ngưỡng, Điều 160 Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định 1. Đất tín ngưỡng bao gồm đất có công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ. 2. Việc sử dụng đất tín ngưỡng phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 3. Việc xây dựng, mở rộng các công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ của cộng đồng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Bên cạnh đó còn nhiều điều khoản trong Luật Đất đai năm 2013 quy định về đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo. Vì vậy, Luật chỉ quy định khái quát: “Đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo được quản lý và sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai”.

– Về cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo(Điều 58) Luật Xây dựng năm 2014 có các quy định liên quan đến xây dựng cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo vì vậy, Luật chỉ quy định khái quát, dẫn nguồn văn bản pháp luật áp dụng khi thực hiện xây dựng, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo. Ngoài ra Luật quy định việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo thực hiện như quy định của pháp luật về xây dựng đối với các công trình, nhà ở riêng lẻ xây dựng trong đô thị, trung tâm cụm xã, trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử – văn hóa, cách mạng, quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xây dựng của tổ chức, cá nhân tôn giáo. Luật cũng quy định việc tu bổ, phục hồi cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo là di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng; việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc các cơ sở này thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật về xây dựng.

– Về di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo (Điều 59) Luật quy định “Việc di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế – xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về xây dựng”.

8. Quản lý nhà nước và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo (Chương VIII)

8.1. Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo (Mục 1)

Đây là nội dung mới của Luật so với Pháp lệnh gồm 04 điều, cụ thể:

– Về nội dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 60), Luật quy định quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm 07 nội dung: (1). Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. (2). Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. (3). Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. (4). Phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. (5). Nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo. (6). Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. (7). Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

– Về trách nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 61), việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế phần lớn thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, bởi vậy Luật quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước. Để giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và nhất là có cơ chế theo dõi, đánh giá việc bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Luật giao cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, Luật quy định bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân huyện đồng thời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã quy định tại Luật.

– Về thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 62), Luật quy định thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước. Ngoài ra, Luật quy định thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện các nhiệm vụ sau: thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban nhân dân các cấp; thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

– Về khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 63), trong quá trình thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có thể xảy ra trường hợp cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của Luật gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, vì vậy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ và các tổ chức, cá nhân khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Luật cho phép các đối tượng trên có quyền khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính, khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật có liên quan. Ngoài ra Luật còn quy định cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.

8.2. Xử lý vi phạm trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo (Mục 2)

– Về xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 64), Luật quy định như sau: (1). Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. (2). Căn cứ quy định của Luật và Luật xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt cụ thể và thẩm quyền lập biên bản đối với hành vi vi phạm hành chính; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

– Về xử lý cán bộ, công chức vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo khi thi hành công vụ (Điều 65), Luật quy định cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo khi thi hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm sau đây: lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của Luật và pháp luật có liên quan; thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quy định về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo.

9. Điều khoản thi hành (Chương IX)

– Về hiệu lực thi hành (Điều 66), Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/UBTVQH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

– Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 67), Luật quy định 06 nội dung về điều khoản chuyển tiếp như sau: (1). Nhóm người đã được chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo trước ngày Luật có hiệu lực không phải làm thủ tục đăng ký, công nhận lại theo quy định tại các điều 17, 19 và 22 của Luật. (2). Tổ chức tôn giáo trực thuộc đã được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất; hội đoàn tôn giáo, dòng tu và tổ chức tu hành tập thể đã được cấp đăng ký hoạt động trước ngày Luật có hiệu lực không phải làm thủ tục đề nghị, đăng ký lại theo quy định tại Điều 29 và Điều 38 của Luật. (3). Đối với tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo trước ngày Luật có hiệu lực thì thời gian để công nhận là tổ chức tôn giáo theo quy định tại khoản 1 Điều 21 của Luật được tính từ khi tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. (4). Tổ chức tôn giáo đã được công nhận trước ngày Luật này có hiệu lực là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày Luật này có hiệu lực. Các tổ chức tôn giáo này có trách nhiệm điều chỉnh hiến chương tại đại hội gần nhất theo quy định tại Điều 23 và đăng ký hiến chương sửa đổi theo quy định tại Điều 24 của Luật. (5). Chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày Luật có hiệu lực, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo trước ngày Luật có hiệu lực có trách nhiệm thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 43 của Luật. (6). Chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày Luật này có hiệu lực, cơ sở tín ngưỡng đã thông báo hoạt động tín ngưỡng hằng năm trước ngày Luật có hiệu lực có trách nhiệm đăng ký hoạt động tín ngưỡng theo quy định tại khoản 2 Điều 12 của Luật.

–     Về quy định chi tiết (Điều 68), Luật giao Chính phủ quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật./.

MT