Chùa Keo Thái Bình kiệt tác kiến trúc cổ Việt Nam
Ngày đăng: 20/10/2022Chùa Keo có tên là “Thần Quang Tự”, tọa lạc trên bờ sông Thái Bình tại làng Keo nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Theo sử sách ghi lại, Thiền sư họ Dương, húy là Minh Nghiêm, hiệu là Không Lộ, sinh năm 1016 tại hương Hải Thanh, nay là xã Xuân Hồng (huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Ông là người dựng chùa Nghiêm Quang (chùa Keo ngày nay) làm nơi tu hành vào năm 1061. Do có công chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông nên được vua phong làm Quốc sư triều Lý.
Ngày 3-6 năm Nhâm Tuất, Thiền sư Dương Không Lộ viên tịch, hưởng thọ 79 tuổi. Để tri ơn công lớn, nghĩa dầy, năm 1667, vua Lý Anh Tông cho đổi tên chùa Nghiêm Quang thành chùa Thần Quang và tên Thần Quang tự bắt đầu có từ đó.
Chùa Thần Quang chỉ tồn tại được 500 năm, đến năm 1611 một trận hồng thủy lớn đã cuốn trôi mất ngôi chùa. Sau đó, dân làng Keo phải di cư đi nơi khác và chia làm hai làng, một làng di chuyển sang hữu ngạn sông Hồng (nay là xã Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định), một làng di chuyển sang tả ngạn sông Hồng (nay là xã Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình). Cũng từ đó, dân hai làng bắt đầu cuộc vận động xây dựng lại chùa.
Chùa Keo là ngôi chùa có qui mô vào loại nhất trong các ngôi chùa cổ ở Việt Nam
Ngôi chùa Keo ngày nay được xây dựng từ thời vua Lê Trung Hưng năm 1632 theo lối kiến trúc “Nội công ngoại quốc” đặc trưng của kiến trúc chùa Việt Nam (có nghĩa là kiến trúc bên trong theo hình chữ Công, bên ngoài theo hình chữ Quốc).
Theo bia đá trong chùa ghi lại, chùa Keo xây dựng trên khu đất rộng 58.000m2, gồm 21 công trình với 127 gian công trình kiến trúc. Hiện nay, toàn bộ kiến trúc chùa Keo còn 17 công trình chính như: Tam quan, chùa Phật, điện Thánh, gác chuông, khu hành lang và khu tăng xá... với hơn 100 gian. Đây cũng là ngôi chùa cổ có số lượng gian nhiều nhất còn lại đến nay và là một phức hợp kiến trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Kiến trúc chùa Keo được xem là độc đáo bởi tuy là công trình kiến trúc có quy mô lớn nhưng bố cục rất chặt chẽ. Hơn 100 gian lớn nhỏ khác nhau được bố trí thành một khối kiến trúc đăng đối liên hoàn: tam quan ngoại, hồ nước lớn, tam quan nội, chùa Phật, đền Thánh và cuối cùng là gác chuông. Tuy gồm hàng trăm tòa nhà, gian nhà nhưng kiến trúc ngôi chùa không hề đơn điệu. Nhìn từ trên cao, độ cao mái, độ xòe rộng cao thấp khác nhau của các công trình chùa Keo như một “lớp sóng cồn”.
Bên cạnh kiến trúc “Nội công, ngoại quốc” thì việc chùa được xây dựng quay mặt ra hướng nam với điểm đầu là Tam quan ngoại và điểm cuối Gác chuông nằm trên một trục bắc – nam được xem là đường “thần đạo” trong phong thủy kiến trúc.
Toàn bộ ngôi chùa làm bằng gỗ lim
Toàn bộ ngôi chùa được làm bằng gỗ lim, không sử dụng đinh tán mà chỉ dùng mộng gỗ ghép lại với nhau. Mặc dù vậy qua mấy trăm năm, kết cấu của toàn bộ kiến trúc gỗ này vẫn rất chắc chắn. Các cột đỡ, vì kèo được các nghệ nhân điêu khắc thời Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo. Đặc biệt là gác chuông 3 tầng cao hơn 11 mét với bộ khung được kết cấu bởi gần 100 con sơn chồng lên nhau, được gọi là 100 đàn đầu voi liên kết bằng mộng gỗ, nâng đỡ 12 mái ngói cong thanh thoát.
Gác chuông là công trình kiến trúc độc đáo của chùa Keo
Toàn bộ mái chùa đều được lợp vảy cá mềm mại. Các kiến trúc đao loan uốn cong chạm trổ hình rồng, phượng, cá,.. rất tỉ mỉ công phu. Ở tam quan nội có bộ cửa gỗ chạm một đôi rồng và nhiều rồng con đang chầu nguyệt được xem là kiệt tác chạm khắc thế kỷ 17. Trong chùa có những pho tượng Phật được chạm khắc từ thế kỷ 17, 18, khánh đá và bộ chuông đồng ,.. đều là những di sản quý báu. Chùa Keo được đánh giá là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc. Trải qua biết bao thăng trầm, biến cố của thời gian, ngôi chùa vẫn toát lên vẻ cổ kính, vững chắc với thời gian.
Hội thu được mở vào các ngày 13 - 15 tháng 9 âm lịch
Hàng năm chùa Keo Thái Bình có hai ngày hội chính. Hội xuân được mở vào ngày mùng 4 tháng Giêng. Hội thu được mở vào các ngày 13 - 15 tháng 9 âm lịch và là hội chính nhằm tưởng nhớ, suy tôn Ðức thánh Thiền sư Không Lộ.
Nếu như lễ hội mùa xuân vừa là lễ hội nông nghiệp vừa là lễ hội thi tài gắn với sinh hoạt của cư dân nông nghiệp vùng sông nước thì lễ hội mùa thu ngoài tính chất là hội thi tài giải trí còn mang đậm tính chất của một lễ hội lịch sử. Lễ hội chùa Keo hiện còn bảo lưu nguyên vẹn nhiều nghi thức truyền thống như: khai chỉ mở cửa đền Thánh, tế lễ Phật thánh trong nội tự chùa, rước kiệu Đức thánh... Nghi lễ rước kiệu Đức thánh tại lễ hội chùa Keo là một nghi lễ được tổ chức kỳ công, hoành tráng nhất trong các lễ hội của vùng châu thổ Bắc Bộ nhằm tái hiện lại cuộc kinh lý của Thiền sư Không Lộ lên kinh đô chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông và các sự lệ diễn tả lại cuộc đời của ngài. Nghi lễ rước thánh được tổ chức vào ngày 14/9 là ngày kỷ niệm ngày sinh của đức Thiền sư Không Lộ, cũng là ngày giữa hội. Chuẩn bị từ giữa đêm, đến 6 giờ sáng, cuộc rước chính thức bắt đầu. Mặc dù đoàn rước khổng lồ hàng nghìn người, kéo dài hàng trăm mét, với nhiều thành phần tham gia như người già, trai tráng, phụ nữ, trẻ em trong trang phục chỉnh tề, cầu kỳ cùng hệ thống đạo cụ đa dạng như kiệu, lọng, long đình, nhang án, trống, chiêng…, song tất cả thành viên tham gia rước kiệu đều tôn nghiêm, thành kính tuân theo các quy định truyền thống nghiêm ngặt. Nghi lễ rước kiệu là nghi lễ mang tính tôn giáo đặc trưng nhưng lại đậm đà sắc thái của những sinh hoạt văn hóa dân gian của đất và người Thái Bình. Qua các nghi lễ đó, dân làng cầu mong thánh thần phù hộ độ trì, che chở cho mùa màng bội thu, cuộc sống an khang thịnh vượng.
Cùng với các nghi lễ độc đáo, lễ hội chùa Keo còn có các cuộc thi tài, các trò chơi dân gian đặc sắc không đâu có như thi bắt vịt, thi nấu cơm, thi ném pháo, thi thày đọc, thi kèn, thi trống, múa ếch vồ, bịt mắt đánh trống, leo cầu ngô… Thông qua các trò chơi dân gian truyền thống, hình thức biểu diễn nghệ thuật phản ánh lối sống của vùng dân cư nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ nói chung, Thái Bình nói riêng.
Chùa Keo đã tồn tại gần 400 năm. Trong suốt thời gian ấy, chùa Keo vẫn trọn vẹn là một tác phẩm nghệ thuật, vẫn giữ gần như nguyên vẹn kiến trúc cổ kính đặc trưng của các ngôi chùa Việt.
Với những giá trị lịch sử, kiến trúc và mỹ thuật độc đáo, năm 2012 chùa Keo Thái Bình đã được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. Năm 2017 lễ hội chùa Keo cũng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Nguyễn Ngân