Nếp sống đạo của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo
Ngày đăng: 02/12/2024Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ (tín đồ suy tôn là Đức Tôn sư, Đức Thầy, Đức Huỳnh Giáo chủ) sáng lập ngày 18/5 năm Kỷ Mão (1939) tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).
Phật giáo Hòa Hảo lấy tôn chỉ hành đạo là: “học Phật, tu Nhân” “tại gia cư sỹ”, lấy việc báo đáp tứ ân làm căn bản tu hành; giữ 8 điều răn cấm và thực hành giáo lý chân truyền của Đức Huỳnh Giáo chủ; tích cực cứu giúp người nguy khó, tương trợ trong quan, tang, tế và hoạt động từ thiện xã hội. Phật giáo Hòa Hảo đã được Nhà nước công nhận về tổ chức năm 1999.
Đường hướng hành đạo của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo là “Vì Đạo pháp, vì Dân tộc”. Nhiệm kỳ Đại hội của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo là 05 năm, đến năm 2022, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã qua 05 kỳ đại hội, với cơ cấu tổ chức 02 cấp: cấp Trung ương là Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo gồm 28 trị sự viên, đứng đầu ban Trị sự Trung ương là chức danh Trưởng ban; cấp cơ sở là các Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xã, phường, thị trấn từ 07-11 trị sự viên (hiện nay đã thành lập được 400 ban trị sự), đứng đầu Ban Trị sự cơ sở là chức danh Trưởng ban. Tại các tỉnh, thành phố có đông tín đồ, có Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo cấp tỉnh làm cầu nối giữa Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự xã, phường, thị trấn.
Biểu tượng Phật giáo Hòa Hảo là một hình tròn, nền màu dà có dòng chữ viền: PHẬT GIÁO HÒA HẢO màu vàng và bông sen trắng nở 4 cánh ở giữa. Đạo kỳ Phật giáo Hòa Hảo màu dà, chất liệu bằng vải, ngang bằng 2/3 chiều dài, được treo trong khuôn viên chùa Phật giáo Hòa Hảo, trụ sở Ban Trị sự và những điểm làm lễ vào 02 ngày lễ trọng của đạo. Phật giáo Hoà Hảo không quy định về lễ phục, song trong những ngày lễ hoặc cúng tại chùa, tín đồ đều mặc áo đen, khăn đóng đen. Phật giáo Hòa Hảo không có hàng ngũ chức sắc xuất gia tu hành, không có hàng giáo phẩm. Chức việc Phật giáo Hòa Hảo là tín đồ chân tu, có tâm đạo, là công dân Việt Nam từ 25 tuổi trở lên, tùy trình độ, năng lực, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn, được ứng cử hoặc bổ nhiệm vào tổ chức Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo có 50 cơ sở thờ tự (chùa) đã được Nhà nước công nhận; khoảng hơn 1,5 triệu tín đồ; khoảng 3.000 chức việc (không có chức sắc) sinh sống ở 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tập trung chủ yếu ở An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ.
Ông Huỳnh Phú Sổ được tín đồ suy tôn là Đức Tôn sư, Đức Thầy, Đức Huỳnh Giáo chủ. Ông chủ trương quy nguyên Phật pháp, canh tân giáo điều, kêu gọi tu tâm sửa tánh, làm lành lánh dữ, xiển dương giáo thuyết học Phật tu Nhân mà trọng tâm là thực hành báo đáp Tứ ân: ân Tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam bảo, ân đồng bào và nhân loại. Giáo luật của Phật giáo Hòa Hảo dễ nhớ, dễ làm đối với nông dân. Người theo đạo phải thề theo đạo cho đến hết đời. Nam giới để râu để tóc búi. Tín đồ ăn chay từ thấp đến cao; những ngày không ăn chay vẫn phải tránh ăn thịt các con chuột, trâu, hổ, mèo. Đối với người bổn đạo Phật giáo Hòa Hảo, Đức Huỳnh Giáo chủ luôn căn dặn lấy việc báo đáp tứ ân làm căn bản tu hành, giữ tám điều răn cấm và thực hành giáo lý chân truyền của Đức Huỳnh Giáo chủ, tích cực cứu giúp người nguy khó, tượng trợ trong quan, tang, tế và hoạt động từ thiện xã hội.
Việc gia nhập vào đạo Phật giáo Hòa Hảo cũng rất đơn giản. Phật giáo Hòa Hảo chỉ yêu cầu người muốn quy y phải được hai người bổn đạo cũ có đức hạnh giới thiệu, bảo lãnh với Ban Trị sự địa phương. Sau khi được nghe phổ biến thể lệ tu hành, người muốn quy y cho biết mình có bằng lòng vào đạo hay không. Nếu đồng ý thì phải báo cho gia đình biết; nếu ông bà, cha mẹ đã quá cố thì phát nguyện quy y trước bàn thờ Tổ tiên. Sau đó, người muốn quy y được phát quyển sách Cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn đạo, là một hình thức chứng nhận đã trở thành tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Những người ở xa tổ chức đạo cũng có thể đọc giáo lý mà tự quy y, do sự tự nguyện, do ý thức của mỗi người và người quy đạo thì phải giữ giới luật, không được làm ô danh đạo.
Cách tu hiền của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo
Người quy đạo thực hiện “Lời khuyên bổn đạo” còn được gọi là “tám điều răn cấm”, là giới luật căn bản của Phật giáo Hòa Hảo, là sơ đồ để con người thực hiện đạo nhân. Tám điều răn xoay quanh các nội dung như: khuyên bổn đạo phải giữ tròn luân lý, không sa vào các thói hư tật xấu; phải biết chăm chỉ làm ăn, biết tha thứ cho người khác; phải tiết kiệm, không vì tiền của mà quên đạo nghĩa; không nguyền rủa Phật Trời; không nên ăn thịt trâu, chó, bò, những con vật vốn gần gũi và giúp ích cho con người, không sát sanh hại vật để cúng thần thánh; không lãng phí tiền của vào việc đốt giấy tiền vàng bạc; phải biết suy xét cẩn thận trước khi phán đoán mọi việc; quan trọng nhất là toàn bổn đạo phải “thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức”. Cụ thể: điều thứ nhất: không được uống rượu, cờ bạc, hút thuốc phiện, chơi bời đàng điếm, phải giữ trọng luận lý tam cương, ngũ thường; điều thứ hai: không được lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu luân chân chất, không được gây gổ lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau khi nóng giận; điều thứ ba: không được ăn sài trưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng sống ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu, phụ người nghèo khó; điều thứ tư: không được kêu Trời, Phật, Thần thánh mà sai hoặc nguyền rủa Thần thánh không can dự đến ta; điều thứ năm: không ăn thịt trâu bò, chó và sát hại sinh vật mà cúng Thần thánh vì Thần thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu can tội sẽ chịu tội; còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần, nếu cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta; điều thứ sáu: không đốt giấy tiền, vàng bạc, quần áo mà tốn tiền vô lý vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không sai được nữa, phải để tiền lãng phí ấy cứu trợ cho những người đói rách tàn tật; điều thứ bảy: đứng trước mọi việc sự đời và đạo đức phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy; điều thứ tám: phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào đường đạo đức. Nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Cách tu hiền của người quy đạo Phật giáo Hòa Hảo, trong giáo thuyết nêu rõ là tu theo ân tứ đức. Cụ thể, đối với ân Tổ tiên cha mẹ, người bổn đạo Phật giáo Hòa Hảo tâm niệm, con người sinh ra cõi đời có được hình hài từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, là nhờ công lao cha mẹ. Nhưng công sinh thành ra cha mẹ là ông bà Tổ tiên, do đó, phải sống hiếu nghĩa với cha mẹ, ông bà Tổ tiên. Con người phải có trách nhiệm đền ơn đáp nghĩa với cha mẹ, ông bà Tổ tiên. Muốn đền ơn cha mẹ phải nghe lời răn dạy, không làm điều xấu để phiền lòng cha mẹ; phải chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ nhất là những lúc cha mẹ ốm đau, già yếu. Muốn đền ơn ông bà Tổ tiên, không được làm tổn hại đến truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ. Nếu Tổ tiên có làm gì sai lầm gieo đau thương cho con cháu thì phải quyết chí tu cầu để rửa nhục. Lúc cha mẹ còn sống cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ mất thì cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh thoát đọa trầm luân. Đây là điều ân nghĩa đầu tiên quan trọng nhất trong đạo Tứ ân.
Đối với ân đất nước, con người khi sinh ra phải nhờ Tổ tiên, cha mẹ, sống là nhờ đất nước, quê hương. Mỗi người phải ân nghĩa với đất nước quê hương vì đó là nơi nuôi ta sống, và ông bà Tổ tiên ta thường sống, đó là nơi cho ta thuần phong mỹ tục, “nâng tâm hồn ta lên và nâng bước ta đi. Mỗi con người phải yêu đất nước, yêu quê hương, tùy theo tài lực của mình mà làm cho quê hương giàu mạnh. Mỗi con người phải có trách nhiệm bảo vệ đất nước khi bị ngoại xem và nhất là không phản bội Tổ quốc làm tay sai cho ngoại bang.
Đối với ân Tam bảo. Tam bảo là Phật, pháp, tăng. Ân Tam bảo là ghi nhớ công ơn Phật, pháp, tăng đã khai mở trí tuệ, cứu vớt chúng sinh khỏi vòng trầm luân khổ ải. Bổn phận của mỗi con người phải nơi theo tiền nhân tôn kính Tam bảo, tu rèn thân tâm để tiến tới trên con đường giải thoát.
Đối với ân đồng bào nhân loại, mỗi con người phải sống ân nghĩa với đồng bào của mình. Những người sống trong cùng đất nước, cùng màu da, tiếng nói, cùng Tổ tiên phải sống ân nghĩa với những người xung quanh đã từng chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn, từng giúp đỡ nhờ cậy trong lúc khó khăn hoạn nạn. Không những thế, mỗi con người phải ân nghĩa với đồng loại, nhân sinh không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn giàu nghèo... đang sống cùng ta trên một quả địa cầu. Hãy nghĩ đến dân tộc khác cũng như nghĩ đến mình và đồng chủng mình, không phân biệt chủng tộc, theo tinh thần “từ bi hỷ xả”, “vô ngã vị tha” không gây thù oán; không vì bản thân mình, dân tộc mình mà gây hại cho người khác, dân tộc khác. Hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỷ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo còn được răn dạy tôn trọng người khác tín ngưỡng, không cậy đông người mà ức hiệp hoặc nói xấu, bài xích, không nên gây oán thù mà phải giữ mối quan hệ hòa hợp, gây thiện cảm lẫn nhau, đồng thời, phải biết thương xót giúp đỡ mọi người, nhất là những lúc họ gặp khó khăn hoạn nạn. Tất cả hành động trong đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì thì phải tính toán một cách cẩn thận, đừng làm chuyện ngông cuồng, vô ý thức; đừng ỷ lại kẻ mạnh cũng đừng ỷ lại sự cứu vớt của Thánh thần và sự bênh vực của Thầy mình. Tất cả phải luôn nhớ câu nhân quả của Phật dạy, nếu nhân toàn thiện thì quả do đó cũng được toàn thiện. Mỗi người hãy lấy trí thông minh nhận xét đạo lý hay lời nói của Thầy mình mới có thể tiến bộ trên con đường đạo đức. Đức Giáo chủ khuyên răn: muốn quy y một tôn giáo nào trước hết phải hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của tôn giáo ấy. Nếu không thì sự tu hành chỉ là vô nghĩa, chỉ là mù quáng. Chỉ đức tin và cái tâm thanh tịnh thôi chưa đủ mà cần nhất là sự sáng suốt. Nếu không sáng suốt, con người dễ lầm đường, lạc lối, không nhận ra được cái chân giá trị của đạo. Bỏ dị đoan mới thấy đạo mầu.
Nếp sống đạo của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những cư sỹ tại gia nên nếp sống của người bổn đạo chủ yếu ở gia đình nên thờ phụng, hành đạo ngay tại gia đình. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo không phải xây chùa chiền, thánh thất, không có giáo sỹ, tu sỹ, không tổ chức thành giáo hội, chỉ có một số chức sắc nhỏ ở xóm ấp lo việc đạo, việc đời vẫn ăn ở trong gia đình cùng vợ con như mọi tín đồ. Người đạo Phật giáo Hòa Hảo chỉ đọc sấm giảng của Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và niệm Lục tự Di Đà gồm sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật để tĩnh tâm. Do cách hành đạo niệm Lục tự Di Đà nên Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là pháp môn Tịnh Độ Phật học tu nhân.
Việc thờ phụng và hành đạo của người bổn đạo rất đơn giản chỉ thờ Phật, thờ ông bà Tổ tiên, thờ các vị Anh hùng dân tộc; không thờ thần thánh nếu không rõ căn tích. Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật nhưng không bằng tượng cốt tranh ảnh mà thờ tấm vải Trần Dà với quan niệm Phật tức tâm, tâm tức Phật. Từ trước đến giờ các nhà sư vẫn dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là màu kết hợp của tất cả các màu sắc khác nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Ở mỗi gia đình tín đồ Phật giáo Hòa Hảo có ba bàn thờ là bàn thờ Phật ở cao nhất chỉ treo tấm Trần Dà; bàn thờ Tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thờ thông thiên thờ ngoài trời ở trước cửa nhà. Sau này, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo có thờ ảnh của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, thường được đặt dưới tấm Trần Dà, để chiêm ngưỡng và tỏ lòng thành kính. Nếu trong nhà chật chội thì đặt bàn thông thiên với một lư hương cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau dồi tâm tính hơn là sự lễ bái ở ngoài. Người tín đồ nếu ở chung với người khác không tu hiền hay không cùng một đạo với mình hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ thờ phượng thì đến giờ cúng lễ chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng được. Sự kết hợp giữa ba bàn thờ chính là một trong những phương cách để tín đồ Phật giáo Hòa Hảo biểu hiện tấm lòng thành, ước mong báo đáp tứ ân để vẹn đường tu.
Lễ phẩm cúng Phật hay cúng trời đất ở bàn thông thiên chỉ có hương, hoa và nước lạnh. Nước lạnh thể hiện sự trong sạch, hoa thể hiện sự tinh khiết, hương thơm xua đuổi tà khí. Lễ phẩm cúng ông bà Tổ tiên làm đồ chay hoặc mặn tùy ý. Đức Giáo chủ khuyên tín đồ không nên làm giỗ linh đình tốn kém, bởi Thánh thần và người chết không ăn được những thứ đó. Đặc biệt, Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối không dùng vàng mã trong cúng giỗ, cho rằng đó là điều giả tạo, lãng phí, không cần thiết.
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo có các ngày lễ chính là: Mùng Một tháng Giêng, Tết Nguyên đán; ngày 15 tháng Giêng, lễ Thượng nguyên; ngày 08 tháng Tư, lễ Phật đản (nay đổi sang Rằm tháng Tư); ngày 18 tháng Năm, lễ Khai đạo; ngày 15 tháng Bảy, lễ Trung nguyên; ngày 12 tháng Tám, lễ Phật thầy Tây An; ngày 15 tháng Mười, lễ Hạ nguyên; ngày 15 tháng Mười Một, lễ Phật A Di Đà; ngày 25 tháng Mười Một, lễ sinh nhật Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ; ngày 8 tháng Chạp, lễ Phật thành đạo. Trong các lễ nói trên, thì lễ Khai đạo và lễ sinh nhật Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là hai lễ quan trọng. Ngoài ra, Phật giáo Hòa Hảo còn có các ngày lễ khác như: lễ giỗ Đức Ông, Đức Bà là bố, mẹ Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ; lễ vía Phật thầy Tây An và các đệ tử của ông là Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành, Ngô Lợi...
Phật giáo Hòa Hảo không lạy người lúc sống, trừ ông bà cha mẹ; chỉ lạy Đức Phật, Tổ tiên, ông bà đã mất và các vị Anh hùng cứu quốc. Với Phật thầy Tây An và Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, tín đồ lạy bằng cách ngửa lòng bàn tay vì họ tin rằng những vị ấy không chết. Thời gian lễ bái tại gia của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo được chia làm hai lần là sáng sớm (khoảng 4-5 giờ) và chiều tối (khoảng 18-19 giờ) theo lời dặn dò của Đức Huỳnh Giáo chủ. Trang phục lúc cúng lạy tại nhà, tại chùa và khi đọc sấm giảng, tín đồ phải mặc đạo phục trắng dà. Ngày thường, tín đồ có thể ăn mặc tùy theo sở thích, khi đi dự lễ phải mặc quốc phục áo dài khăn đóng. Đối với nghi thức trước mỗi ngôi thờ, Phật giáo Hòa Hảo đều có những bài nguyện riêng trước bàn thờ Phật, bàn thờ Tổ tiên và bàn thông thiên. Bài khấn nguyện ngắn gọn và súc tích, có bài được Đức Huỳnh Giáo chủ viết theo thể thơ lục bát hoặc thất ngôn rất dễ nhớ. Trước bàn thờ Phật, tín đồ cầm hương, xá ba xá, quỳ xuống chắp tay đưa lên trán, đọc bài nguyện quy y. Khi đọc xong, tín đồ cắm hương lạy bốn lạy (hoặc cắm hương rồi đứng thẳng) chắp tay vào ngực đọc bài về Tây phương ngũ huyện. Tiếp đó, tín đồ lạy bốn lạy rồi vái lần lượt theo thứ tự: “một vái chính giữa niệm: Nam mô A Di Đà Phật; một vái bên trái niệm: Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát”. Trước bàn thờ Tổ tiên, tín đồ cầm hương, vái ba vái, quỳ xuống chắp tay đưa lên trán, đọc bài nguyện bốn câu được viết theo thể thơ thất ngôn, sau đó, thắp hương, đứng thẳng, chắp tay vào ngực đọc bài nguyện tám câu được viết theo thể thơ lục bát. Trước bàn thờ thông thiên, tín đồ lấy bàn thờ thông thiên làm hướng chính, lần lượt đứng cầu nguyện theo bốn hướng: trước mặt, sau lưng và hai bên. Khi xoay sang hướng kế tiếp, tín đồ thường xoay theo vòng thuận (từ phải qua trái). Tại hướng chính, tín đồ đọc bài quy y, ba hướng còn lại đọc bài Tây phương ngũ nguyện. Sau khi đọc xong mỗi bài nguyện, tín đồ lạy bốn lạy hoặc vái ba vái. Tuy nhiên, Phật giáo Hòa Hảo cũng rất linh hoạt, cho phép tín đồ không phải quỳ lạy nếu đang yếu mệt hoặc khi đi xa thì chỉ cần cầu nguyện trong tâm cũng được.
Phật giáo Hòa Hảo khuyến khích việc ăn chay trường. Nhưng nếu không có điều kiện thì hằng tháng ăn chay bốn lần vào các ngày 14, 15, 29, 30 hoặc ngày mùng Một nếu là tháng thiếu và các ngày lễ trọng của đạo. Những ngày ăn mặn phải kiêng ăn thịt các con vật như trâu, bò, chó vì chúng có ích và sống gắn bó với con người.
Hôn nhân và tang ma của Phật giáo Hòa Hảo đơn giản tiết kiệm và tiến bộ, Phật giáo Hòa Hảo khuyên cha mẹ không được ép buộc tình duyên của con cái, nhưng phải có bổn phận hướng dẫn khuyên bảo con cái, không nên để con cái quá tự do mà thiếu kinh nghiệm làm cho cuộc đời chúng hư hỏng. Phật giáo Hòa Hảo khuyên không được thách cưới bằng lễ vật hay tiền, tổ chức lễ cưới đơn giản, tiết kiệm. Hôn lễ và tang lễ của người theo Phật giáo Hòa Hảo cũng giống như của người Việt, không có dấu ấn tôn giáo riêng. Phật giáo Hòa Hảo chủ trương theo nếp cũ của Tổ tiên, cho rằng tang lễ cốt ở sự thành tâm cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu thoát. Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ còn khuyên mọi người không nên khóc lóc trong tang lễ vì làm như vậy sẽ cản trở cho sự siêu thoát anh linh của người chết.
Có thể thấy cách tu hiền và nếp sống đạo của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo khá giản dị, mang vẻ bình yên, gần gũi với cuộc sống thường nhật của mỗi con người. Chủ yếu, Phật giáo Hòa Hảo khuyến khích tín đồ giúp đỡ các chùa nghèo, đối với các tôn giáo khác phải “dĩ hòa vi quý”, có thái độ tôn trọng, không vì đề cao đạo của mình mà hạ thấp những tín ngưỡng khác. Đối với nhân sinh luôn nhẫn nhịn, hiếu hòa, sẵn lòng giúp đỡ họ khi cần thiết. Đối với bản thân mỗi tín đồ luôn coi trọng việc học hành để trí tuệ minh mẫn, tinh thần sáng suốt giúp thoát khỏi mê lầm, nhận ra chân giá trị. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo luôn giữ thân tâm trong sạch bằng cách luyện tập thể dục, ăn ở vệ sinh, dù phải mưu sinh, nhưng tuyệt đối không làm những nghề nghiệp trái với nhân đạo. Với những tính cách đó của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã khắc họa thêm về vùng đất và người dân Nam Bộ nhân hậu, nhân ái, nhân văn.
Thu Trà