Dân tộc – Tôn giáo: Sức mạnh đoàn kết để phát triển
Ngày đăng:
28/11/2025
27
| Đọc bài viết |Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; hai lĩnh vực này không tồn tại tách rời mà đan xen vào trong không gian cư trú, văn hóa và đời sống cộng đồng. Trong bối cảnh chuyển đổi số, đô thị hóa và hội nhập, củng cố đoàn kết dân tộc – tôn giáo là nền tảng để ổn định xã hội, khơi thông nguồn lực và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Triển lãm ảnh, tư liệu về các dân tộc và tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Liên quan đến công tác dân tộc và công tác tôn giáo, điểm xuất phát không chỉ là đa dạng mà còn là mức độ giao thoa ngày càng sâu giữa các cộng đồng: giao thoa văn hóa, lao động, học tập, và trên môi trường số.
Trên phương diện dân tộc, Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống lâu đời; trong đó 53 dân tộc thiểu số có quy mô hơn 14 triệu người (khoảng 14,7% dân số), phân bố ở nhiều địa bàn miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa. Ở phương diện tôn giáo, đời sống tín ngưỡng tôn giáo tại Việt Nam cũng có quy mô và cấu trúc đa dạng. Theo thống kê mới nhất năm 2025, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 40 tổ chức thuộc 16 tôn giáo với khoảng 27.382.846 tín đồ, 66.365 chức sắc, 120.475 chức việc, 30.374 cơ sở tôn giáo, và trên 70.000 cơ sở tín ngưỡng.
Nhìn vào số liệu cũng có thể thấy ngay một mối liên hệ chặt chẽ giữa dân tộc và tôn giáo: Một phần đáng kể đồng bào dân tộc thiểu số đồng thời là tín đồ tôn giáo hoặc gắn bó mật thiết với tín ngưỡng truyền thống của tộc người; trong khi đó, nhiều tôn giáo lại vận hành bằng mạng lưới tổ chức – cộng đồng có khả năng kết nối liên vùng, xuyên qua các vùng dân tộc thiểu số. Dân tộc và tôn giáo vì thế vừa là cấu phần của bản sắc, vừa là kênh tổ chức xã hội có tác động trực tiếp đến sự ổn định – phát triển của đất nước.
Hiến pháp 2013 đặt ra nguyên tắc rất rõ về dân tộc: Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: mọi người có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo; các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền này; không ai được xâm phạm hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Theo đó, Hiến pháp không nhìn nhận dân tộc và tôn giáo như hai mảng tách rời, mà đặt chúng trong cùng triết lý về quyền con người, bình đẳng, đoàn kết, và thượng tôn pháp luật.
Đây là nền tảng để củng cố mối quan hệ bền vững giữa dân tộc và tôn giáo thông qua việc xây dựng một không gian chung nơi khác biệt được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ, là cơ sở để thực hành đoàn kết trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người và xử lý hài hòa các khác biệt văn hóa – niềm tin trong cộng đồng.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và tôn giáo
Về bản chất, văn hóa dân tộc và đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tương đồng. Truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", "Thương người như thể thương thân" của dân tộc Việt Nam có nhiều điểm chung với giáo lý "Từ bi, hỉ xả" của Phật giáo hay "Bác ái" của Công giáo.
Sự cộng hưởng này tạo nên một hệ giá trị đạo đức xã hội bền vững. Tại các vùng đồng bào DTTS, nhiều già làng, trưởng bản thường cũng là những người có uy tín trong cộng đồng tôn giáo. Tiếng nói của họ có sức nặng, vừa mang tính pháp lý của hương ước, vừa mang tính thiêng liêng của đức tin.
Đối với nhiều tộc người, tôn giáo không chỉ là đức tin mà còn là nơi lưu giữ chữ viết, ngôn ngữ và lễ hội. Đạo Bà-la-môn và Hồi giáo (Bani và Islam) là môi trường nuôi dưỡng văn hóa Chăm, từ kiến trúc tháp Chàm đến các lễ hội Katê, Ramưwan, hay các ngôi chùa Khmer là trung tâm sinh hoạt văn hóa, giáo dục, là nơi dạy chữ Pali, chữ Khmer, nơi tổ chức lễ Chol Chnam Thmay, Ok Om Bok...
Lớp dạy chữ Khmer cho con em đồng bào dân tộc tại chùa Trà Tim mới, tỉnh Sóc Trăng (cũ)
Ở nhiều cộng đồng, tín ngưỡng và nghi lễ không chỉ là “niềm tin cá nhân” mà là một phần của cấu trúc văn hóa: lễ hội, luật tục, quan hệ cộng đồng. Tôn giáo, tín ngưỡng thường đóng vai trò như chuẩn mực đạo đức giúp cộng đồng tự điều chỉnh hành vi, tăng gắn kết, giảm lệch chuẩn. Trong công tác dân tộc, điều này có ý nghĩa lớn, nơi nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số nằm ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, sinh kế khó khăn. Khi đời sống còn nhiều khó khăn, vai trò của cộng đồng và điểm tựa tinh thần tăng lên, kèm theo đó là nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhiều tổ chức tôn giáo có truyền thống làm từ thiện, chăm lo người yếu thế, hỗ trợ giáo dục, y tế, cứu trợ thiên tai. Hoạt động này bổ trợ đáng kể cho công tác an sinh xã hội—đặc biệt tại nơi ngân sách công còn hạn chế, địa bàn khó tiếp cận. Với quy mô tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự lớn cũng đồng nghĩa với khả năng huy động tình nguyện viên và điểm tập kết cứu trợ rộng khắp. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết nối chặt chẽ giữa người có uy tín của các đồng bào dân tộc và chức sắc, chức việc các tổ chức tôn giáo giúp cho việc vận động cộng đồng tham gia vào công tác từ thiện, an sinh xã hội đạt nhiều hiệu quả tích cực hơn.
Phật giáo Gia lai tặng quà các hộ gia đình khó khăn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và nguồn lực tôn giáo để phát triển kinh tế, văn hóa và du lịch
Các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam đang đóng góp nguồn lực khổng lồ cho an sinh xã hội, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Cụ thể ở mảng giáo dục có Hệ thống các trường mầm non tư thục của Công giáo, các lớp học tình thương của Phật giáo đang góp phần phổ cập giáo dục. Ở lĩnh vực y tế có các tuệ tĩnh đường, phòng khám từ thiện tôn giáo phục vụ hàng triệu lượt khám chữa bệnh mỗi năm cho người nghèo, đặc biệt là đồng bào DTTS vùng sâu vùng xa. Trong đại dịch COVID-19, hình ảnh các linh mục, tăng ni cởi áo cà sa khoác áo blouse trắng, hay các "Siêu thị 0 đồng" của các tổ chức tôn giáo là minh chứng sống động nhất cho nguồn lực này.
Sự đoàn kết giữa dân tộc và tôn giáo giúp thay đổi tư duy sản xuất ở vùng đồng bào DTTS. Nhiều mô hình "Xứ đạo bình yên, gia đình văn hóa" hay "Chùa cảnh tinh tiến" đã lồng ghép việc tuyên truyền khoa học kỹ thuật. Tại Tây Nguyên, các chức sắc Tin Lành, Công giáo vận động bà con người dân tộc bỏ hủ tục lạc hậu, không du canh du cư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng (cà phê, tiêu, sầu riêng). Tại Đồng bằng sông Cửu Long, các vị sư sãi Khmer hướng dẫn phật tử áp dụng mô hình lúa - tôm, thoát nghèo bền vững.
Về lĩnh vực văn hóa, du lịch, có thể nhận thấy xu thế phát triển hiện nay là đẩy mạnh việc khai thác các vùng đất văn hóa của đồng bào dân tộc và du lịch tâm linh thông qua các đền, chùa, công trình tôn giáo trên khắp cả nước. Thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động này góp phần bảo tồn các di sản văn hóa cộng đồng, sản phẩm thủ công, ẩm thực, lễ hội, và không gian tín ngưỡng tôn giáo. Sự kết hợp giữa bản sắc văn hóa dân tộc và công trình tôn giáo bên cạnh đó tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Có thể kể đến như Quần thể danh thắng Tràng An - Bái Đính và Tam Chúc – Ninh Bình, Khu du lịch tâm linh Fansipan (Lào Cai) kết hợp văn hóa H'mông, Dao, du lịch văn hóa tâm linh vùng Bảy Núi (An Giang) với văn hóa Khmer và đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa…
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát từ bi giữa đại ngàn Hoàng Liên trên đỉnh Fansipan
Củng cố khối đại đoàn kết dân tộc – tôn giáo
Để tiếp tục phát huy vai trò của đoàn kết dân tộc và tôn giáo trong phát triển kinh tế xã hội, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: Tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về công tác dân tộc, tôn giáo; rà soát các văn bản luật liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đảm bảo minh bạch, hài hòa lợi ích.
2. Đầu tư trọng điểm cho vùng DTTS và tôn giáo: Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 thông qua việc ưu tiên hạ tầng giao thông (huyết mạch kinh tế) ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các hộ gia đình tôn giáo làm kinh tế giỏi, đào tạo các làng nghề truyền thống của đồng bào dân tộc gắn với nhu cầu thực tế của địa phương.
3. Phát huy vai trò của người có uy tín và chức sắc, chức việc: Xây dựng đội ngũ người có uy tín cốt cán là già làng, trưởng bản tại các vùng dân tộc thiểu số và chức sắc, chức việc các tổ chức tôn giáo. Họ là "cầu nối" truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến đồng bào dân tộc và tín đồ tôn giáo trên cả nước.
Mối liên hệ giữa dân tộc và tôn giáo trong bối cảnh hiện nay là mối liên hệ hai chiều: bản sắc dân tộc định hình không gian văn hóa – tín ngưỡng và tôn giáo tạo mạng lưới xã hội và nguồn lực cộng đồng tác động đến sự ổn định và phát triển. Đây không chỉ là sự cộng sinh về mặt văn hóa mà còn là một nguồn lực kinh tế - xã hội to lớn. Thông qua những chương trình, quyết sách như Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội và Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng như các văn bản pháp luật của nhà nước được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết dân tộc và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xác định rõ việc xây dựng khối đoàn kết giữa dân tộc và tôn giáo chính là bệ đỡ cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Nguyên Hải